Duy chiên đường đàm kinh chi nhật, đại tiểu tùy tài, các hữu sở tựu. Phương Phu tử chi hiển dã, thác bàn bách trách, thân cứu chi thời sơ(1); Cập Phu tử chi hối dã, lâm tẩu tứ phương, tòng du chi địa cách.
Nhất đán điện doanh chi mộng tác, duệ trượng chi ca tàn(2). Văn phó viễn lai, bán thị bình bồng chi dung; Thăng đường trắc thính, dĩ phi huyền tụng chi thanh. Sổ xích hồng la, tắc Phu tử chi tính tự dã; Nhất đôi hoàng thổ, tắc Phu tử chi văn chương dã. Tường vân đoan nhật chi quang nghi, bất khả đắc nhi đổ chi hĩ; Hòa khí xuân phong chi khí tượng, bất khả đắc nhi tri chi hĩ. Khái thán mộ chi tình, hạt hữu ký da?
Ô hô! Thái Sơn kỳ đồi, tiểu tử an ngưỡng; Triết nhân kỳ nuy, tiểu tử an phỏng. Hạnh đàn sương tỏa, y quan di tự thục vi tông?
Lan tỉnh đài mạn, đào lý dư âm thùy tác chủ?(3)
Vĩnh duy đạo đức chi quang; Bội thiết cương thường chi cảm. Kim hữu bạc điện sổ bôi, bi văn nhất bức. Kỳ cáo vu.
Dịch nghĩa
Văn tế lễ thành phần quan Tham tụng
(Môn sinh tế - quan Thiêm đô ở La Khê soạn)
Ôi! Quốc gia còn thì Phu tử còn, quốc gia mất thì Phu tử mất. Một đời Phu tử, trước sau luôn gắn cùng đất nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 36
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 37
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 38
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 40
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 41
Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.
Văn tài học vấn của ngài, đức hạnh của ngài, lời nói của ngài, việc triều chính của ngài, Thiên tử biết đến, triều đình biết đến, sĩ dân cả nước đều biết đến, quả thật chẳng phải tiểu tử dám kể lể dài dòng. Thế nhưng, trời gây cản trở, quốc gia lâm nạn, không thể một cột chống đỡ quốc gia, một tay vãn hồi bốn biển. Đến như tấm thân thần tử giữa chốn triều đình phải lui về ẩn nơi thâm sơn cùng cốc, khiến cho sự nghiệp tế thế kinh bang không được sáng tỏ đương thời, mà đời sau cũng không thể nghe thấy. Đó không những là điều bất hạnh của Phu tử mà còn là điều bất hạnh của đạo ta. Tuy nhiên, hai lần phế truất được hơn mười năm an nhàn, một lần bất hạnh hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi. Sen dưới bùn nhơ không nhiễm bẩn; Tùng qua sương tuyết vẫn kiên trinh. Chi lan dưới bệ mỗi ngày sực nức thư hương; Trăng gió trước sân mỗi lúc thơm lừng đạo vị. Đó là điều Thượng đế cũng phải ghen thầm, là điều thế gian khó có, nhưng Phu tử có được, chính là nhờ thành tâm tích lũy.
Ôi! Danh tiếng ngài tại sử sách, tấm lòng ngài tại thanh thiên bạch nhật, linh hồn của ngài tại núi cao sông lớn. Trần thế thị phi, cuộc đời dài ngắn, há đủ làm Phu tử nản lòng! Nhớ ngày ở chiên đường đàm kinh, tài năng tùy lớn nhỏ đều có thành tựu. Khi Phu tử làm quan, trị chính cho dân trăm công nghìn việc, không được người dạy dỗ cận kề; Lúc Phu tử lui về, bốn bề rừng núi,
1 Thác bàn: Đá mài ngọc. Ở đây chỉ người làm quan rèn giũa, chỉ chính cho dân; Thân cứu: Mạnh Tử-“Tận tâm” có câu “Nhi huống ư thân cứu chi giả hồ?”, nghĩa là “Huống là thân cận được hai người ấy (Bá Di nổi tiếng liêm khiết và Liễu Hạ Huệ nổi tiếng hòa duyệt đáng làm gương mẫu trăm đời) nung đúc ư?” Dùng chỉ được thầy đích thân dạy dỗ.
2 Lấy ý từ câu chuyện của Khổng Tử: Khi Khổng Tử đang ốm nặng, Tử Cống đến thăm, ngài đang chống gậy đi phía trước nhà…, ngài nói với Tử Cống: “Thiên hạ không có đạo đã lâu rồi, không ai biết theo ta. Người đời Hạ đặt hòm
ở phía tây, người đời Ân đặt nó ở giữa hai cái cột. Đêm qua ta nằm mơ thấy ngồi giữa hai cái cột. Chắc vì ta là con cháu nhà Ân.”
3 Đào lý: Hàn Thi ngoại truyện có câu “Phù xuân thụ đào lý, hạ đắc ấm kỳ hạ, thu đắc thực kỳ thực.” (Cây đào cây mận, mùa xuân trồng, mùa hạ được bóng râm, mùa thu được ăn trái.) Sau dùng chỉ chốn quan trường, nơi quyền quý, người hiền tài, có danh vọng được tiến cử.
thong dong nơi cách trở. Một hôm nằm mộng thấy dựng hai cây [tùng, thu] bên mộ, kéo lê gậy ca hát nghêu ngao. Chợt nghe tin dữ từ xa tới, ngỡ là lời nói mơ hồ. Lóng tai nghe kĩ thì quả thực chẳng phải là lời đồn đại nữa. Vài thước hồng la, chính là họ tên Phu tử; một chồng hoàng thổ, chính là văn chương Phu tử. Sắc mây lành rực rỡ đầu xuân không còn trông thấy nữa, khí ôn hòa mát mẻ gió xuân không còn thoang thoảng nữa. Than tình luyến mộ biết gửi vào đâu?
Ôi! Núi Thái Sơn đã đổ, tiểu tử biết ngưỡng vọng vào đâu? Bậc hiền triết đã mất, tiểu tử biết học tập ở đâu? Sương phủ Hạnh Đàn, áo mũ truyền ai người nối gót? Rêu mọc thư lâu, hiền sĩ sau ai người trông quản? Vầng quang đạo đức luôn ngời; Giềng mối cương thường nhớ mãi. Nay, bày lễ đơn sơ, vài chung rựu nhạt, một bức văn bia, chỉ mong người biết.
Bài 15. 妻荐亡夫文 (5; 12b)
伏以: 巍巍寳刹, 空洞開方便之門; 寂寂痴誠, 超濟伏慈悲之德。俯攄素悃,上叩玄扃。言念,臣: 猥出女流, 嬪于華族。巢鵲幾秋有分,柳堂青京兆之眉;池魚一旦非,藳野碧萇弘之血。悲累鳥之歸魂已化;
悵霜鸞之孤嘴難鳴。三十六年之幻影何歸, 渺忽春霄蝴蝶夢; 四十八願之塵根未斷,淒凉月夜杜鵑聲。色身四大本來空; 香火三生何日了。南海無天可問, 誰伸九壤之冤沉;西方有佛爰皈, 願洗三途之累垢。輝煌丈相, 齋白寸心。閻浮一辨有情香, 復啟蘭盂之法會;凈土三身無漏菓, 仰邀楊露之玄施。伏願: 智月澄臨, 祥雲遍覆。一閥慈航超障海;三乘慧炬照昏衢。拔亡灵九趣之沉淪, 金手擕歸彼岸; 鍳塵念百年之締訂;玉環永証他生。肸蠁若臨, 顯幽同慶。
Thê tiến vong phu văn
Phục dĩ:
Nguy nguy bảo sát, không đồng khai phương tiện chi môn(1); Tịch tịch si thành, siêu tế phục từ bi chi đức.
Phủ sư tố khổn, thượng khấu huyền quynh. Ngôn niệm, thần:
Ổi xuất nữ lưu, tần vu hoa tộc.
Sào thước kỷ thu hữu phận, liễu đường thanh Kinh triệu chi mi(2); Trì ngư nhất đán phi thường, cảo dã bích Trành Hoằng chi huyết(3).
Bi lụy điểu chi quy hồn dĩ hóa; Trướng sương loan chi cô chủy nan minh.
Tam thập lục niên chi ảo ảnh hà quy, miểu hốt xuân tiêu hồ điệp mộng; Tứ thập bát nguyện chi trần căn vị đoạn(4), thê lương nguyệt dạ đỗ quyên thanh.
Sắc thân tứ đại(1) bổn lai không; Hương hỏa tam sinh(2) hà nhật liễu.
1 Sát: dịch âm tiếng Phạn, đầy đủ là sát sát, nghĩa là đất, ruộng; bảo sát là đất Phật. Nhân đó chữ sát về sau dùng chỉ chùa tháp thờ Phật; Phương tiện: tùy theo hoàn cảnh mà khéo lấy việc lợi ích chỉ dẫn cho người.
2 Sào thước: cũng như thước sào. Kinh Thi có câu Duy thước hữu sào, duy cưu cư chi (chim thước có ổ, chim cưu đến ở), chim thước khéo làm ổ, chim cưu vụng về thường ở vào ổ chim thước làm xong. Cũng như việc chư hầu chịu sự giáo hóa của Văn vương đều chính tâm tu thân để tề gia, còn con gái của chư hầu cũng chịu sự giáo hóa của Hậu phi, đều có đức hạnh thuần nhất. Cho nên khi nghe việc gả cho chư hầu, người nhà khen tặng rằng: “Chim thước có ổ
thì chim cưu đến ở.” Chỉ đức hạnh của bà Hậu phi nói riêng và của người phụ nữ nói chung; Kinh triệu: tức Kinh triệu doãn, chức quan đứng đầu ở kinh đô; Liễu mi: đôi mi người đẹp nhỏ dài như lá liễu.
3 Trì ngư: Hoàn Tư mã nước Tống có viên ngọc quý, bị tội phải trốn sang nước khác. Vua sai người tới hỏi viên ngọc để đâu, Hoàn Tư mã trả lời: “Ném nó xuống ao rồi.” Nhà vua cho tát cạn nước ao tìm ngọc, ngọc tìm không được mà cá dưới ao chết hết. Về sau dùng trì ngư chỉ vô cớ mắc họa; Trành Hoằng: theo Thập di ký, Chu Linh vương năm 23
xây đài Côn Chiêu. Trành Hoằng là người có thể chiêu vời được những điều thần dị. Vương lên đài, bỗng thấy 2 người cưỡi mây đi tới, 1 người có thể làm ra băng tuyết, 1 người có thể tạo ra hơi nóng. Lúc ấy Dung Thành Dư can rằng: “Đại vương lấy thiên hạ làm nhà mà lại tiêm nhiễm dị thuật, biến nóng thành lạnh, biến lạnh thành nóng, lừa gạt trăm họ, đó là điều Văn, Vò, Chu Công không làm.” Vương không thân cận Trành Hoằng nữa. Lúc khác, phương xa có người dâng gương đá Ngọc nhân, đá có màu trắng như tuyết, gương có trục hình người bằng ngọc tự chuyển động được. Trành Hoằng nói riêng với Vương rằng: “Đó là do thánh đức vời tới.” Vương cho đó là lời siểm nịnh nên giết Trành Hoằng, máu chảy đong cứng thành ngọc bích.
4 Tứ thập bát nguyện: bốn mươi tám lời nguyện của Phật A-di-đà (khi ngài còn là Tì kheo Pháp Tạng trong nhân địa) lập ở trước Phật Thế Tự Tại vương; Trần căn: tất cả những sự, những pháp không trong sạch trong thế gian (các trần: sắc thanh hương vị xúc pháp) có thể làm ô nhiễm chân tánh của con người thông qua các căn (nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý).
Nam Hải vô thiên khả vấn, thùy thân cửu nhưỡng(3) chi oan trầm; Tây Phương hữu Phật viên quy, nguyện tẩy tam đồ(4) chi lụy cấu.
Huy hoàng trượng tướng, trai bạch thốn tâm.
Diêm Phù nhất biện hữu tình hương, phục khải Vu lan chi pháp hội(5); Tịnh Độ tam thân vô lậu quả, ngưỡng yêu dương lộ chi huyền thi(6).
Phục nguyện:
Trí nguyệt trừng lâm, tường vân biến phú.
Nhất phiệt từ hàng(7) siêu chướng hải, Tam thừa(8) huệ cự chiếu hôn cù.
Bạt vong linh cửu thú chi trầm luân, kim thủ huề quy bỉ ngạn(9); Giám trần niệm bách niên chi đế đính, ngọc hoàn vĩnh chứng tha sinh.
Hật hưởng nhược lâm, hiển u đồng khánh!
Dịch nghĩa
Văn vợ tế chồng đã mất
Phục dĩ:
Chùa thâm u cao ngất, phương tiện tùy mở chốn huyền không; Lòng thành kính trang nghiêm, từ bi rộng cứu người nhân đức.
Cúi đầu nghĩ tấm lòng son sắc; Ngẩng mắt trông cánh cửa nhiệm màu. Nỗi niềm bày tỏ, thiếp đây:
Hèn mọn phận nữ lưu, gả về nơi cao thượng.
Thước xây tổ mấy thu an phận, mày liễu xanh Kinh triệu lang quân; Cá trong ao một thoáng vô thường, Trành Hoằng máu nhuộm đầy bãi cỏ.
Thương thay cánh chim mỏi đã hồn về hóa cảnh; Xót nhẽ cành loan sương đành đơn độc khôn kêu.
1 Tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Bốn thứ này hiện diện khắp nơi nên gọi là tứ đại. Tất cả loài hữu tình trên thế gian đều do bốn đại này tạo thành. Tóc, răng, lông, móng, da, thịt, gân, xương… đều có tánh cứng, thuộc địa đại; nước bọt, nước mắt, đờm, nước tiểu, máu…đều có tánh ướt, thuộc thủy đại; Độ nóng, hơi ấm có tánh ấm, thuộc hỏa đại; Thở ra thở vào có tánh lưu động, thuộc phong đại.
2 Tam sinh: Ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai sanh chuyển không ngừng.
3 Cửu nhưỡng: có lẽ hiểu là sâu và xa như xuống 9 tầng đất lạnh.
4 Tam đồ: ba đường ác: 1. Huyết đồ: đường súc sanh, vì súc sanh là loài thường bị giết hại, vả lại còn ăn thịt lẫn nhau; 2. Đao đồ: đường ngạ quỷ, vì ngạ quỷ là loài luôn bị đói khát và bị đao kiếm, gậy gộc bức bách; 3. Hỏa đồ: đường địa ngục, vì đị ngục là chỗ luôn bị lạnh cóng hoặc lửa dữ thiêu đốt.
5 Diêm phù: tức Diêm phù đề, Trung Hoa dịch là Thiệm bộ châu, là thế giới Ta bà mà chúng sanh đang nương ở hiện nay; Vu lan: Kinh Vu lan bồn: “Đệ tử Phật tu đạo hiếu thuận, mỗi niệm đều phải nhớ cha mẹ hiện tiền cho đến cha
mẹ trong bảy đời quá khứ, mỗi năm ngày rằm tháng bảy làm pháp hội Vu lan, cúng dường Phật và Tăng chúng để báo hiếu ơn sinh dưỡng của cha mẹ.” Ở đây ý nói làm pháp hội cầu siêu cho chồng.
6 Tịnh Độ: là còi hoàn toàn thanh tịnh, nơi ngự của chư Phật.
7 Chướng hải: Biển phiền não. Phiền não có thể làm chướng ngại thánh đạo nên gọi là chướng. Thế gian có vô lượng vô biên phiền não nên gọi là chướng hải.
8 Tam thừa: ba cỗ xe dùng để chuyên chở, tức là ba khoa giáo, mỗi khoa giáo có thể đưa người tu học Phật đến Niết
bàn, còi thanh tịnh.
9 Cửu thú: Chúng sanh trong 3 còi 6 đường; Bỉ ngạn: bờ bên kia, tức bờ giải thoát, người tu hành chứng quả nhập Niết bàn.
Ba mươi sáu năm, đời ảo ảnh về đâu, bỗng chốc đêm xuân nồng giấc điệp; Bốn mươi tám nguyện, bụi trần căn chưa đoạn, thê lương trăng sáng tiếng quyên than.
Sắc thân tứ đại vốn là không; Hương hỏa tam sinh ngày nao dứt.
Nam Hải nào trời đâu khá hỏi, ai hay bày tỏ nỗi oan trầm; Tây Phương có Phật hãy nương về, nguyện rửa Tam đồ bao cấu uế.
Huy hoàng thân phu tướng; Tinh sạch một tấc lòng.
Còi Diêm phù một đóa hữu tình hương, nhân lễ Vu lan bày pháp hội; Miền Tịnh Độ ba thân vô lậu quả, ngửa trông dương liễu rưới cam lồ.
Phục nguyện:
Trăng trí huệ tuôn đầy ánh sáng; Áng mây lành phủ khắp muôn nơi. Một chiếc thuyền từ qua khổ hải; Tam thừa giáo điển chiếu mê đồ.
Quét sạch nỗi trầm luân cửu thú, tay vàng dìu dắt đến bờ kia; Chứng tri lời nguyện ước trăm năm, chỉ thắm kết giao trong hậu kiếp.
Đều đến chung vui, âm dương cùng hưởng!
Bài 16. 瘗旅童文 (14; 24a)
(旅童,名阮文演,不知何人也。憐其病,留養之。凡十八日而死。)
嗚呼!汝何人也?胡為而至,又胡為而歸耶?月朔,汝見我於獄。問其名,曰名什,我同鄉奇光之子,令乙之孫。因從業師元遊學清華,不幸師故,汝亦病,不為師家所容,哀求相侐。奇光,令乙,余鄉人也。然光非乙子,乙非光父。以此知汝非我同鄉。再詢之,曰貫羅該總憲之外孫,東橋隊長派之親子。總憲,隊派,余不知是何人。師元余亦未聞其名也。憐汝無依,乃延醫診脉。予之錢及湯藥而遣之。越五日,汝再來,則病愈重。余以其許相濟,遂留之,延醫調治。三四日間不效。辰因有北歸者,再問其詳,以致書汝家。汝始言姓阮名文演,父派即少𥺊之養子。嗟乎!少𥺊,余幼曾聞其有力者,何為使流落至此耶?汝始冐我同鄉,葢欲假李閈之情動我也。然不知何故乃隠其名,又不知何故不肯實說其系屬。將以其富恐人之望報耶?抑耻其流滯故諱談其祖耶?余聞汝之是行,汝父他出,如母許之行也,千里從師,為其賢耶?則師元素無聞者,為其養耶?則汝諒非窮而無告者
,胡為而至此耶?汝之所言,余之所聞,果已皆盡實耶?是耶非耶?皆不可得而問也。雖然,汝之始終,故不可悉,而汝之病患,實則可憐。惻隠之心,人皆有之。余之於汝,所謂惻隠之心者也,他焉所問哉?余初謂汝之病,必不死,不過湯藥調養旬日而愈。俟其平服,遇有北歸者,予之資斧遣歸,俾汝父子相見。是亦為汝方便,斯予初意也。比後汝病日湯藥弗效,余如憂汝之死,然於義又不棄。葢棄汝則必速汝一日之死,於心何忍!之九死矣(1),余盡心焉。而或一生之理,此則汝之福,正余之願也。嗚呼!孰謂不能濟汝之生
,而遂至於送汝之死耶!余實不肖。故至今五稔,猶淹於沮洳之場。嗟汝何辜,乃至此而為囹圄之鬼耶?汝之命誠薄矣。然余亦凉德,汝托非其所。此所以不能庇汝之生也。嗚呼傷哉!
1 Câu này mất mấy chữ đầu, phía sau chúng tôi tạm dịch.
Ế lữ đồng văn
(Lữ đồng, danh Nguyễn Văn Diễn, bất tri hà nhân dã. Liên kỳ bệnh, lưu dưỡng chi. Phàm thập bát nhật nhi tử.)
Ô hô! Nhữ hà nhân dã? Hồ vị nhi chí, hựu hồ vị nhi quy da? Nguyệt sóc, nhữ kiến ngã ư ngục. Vấn kỳ danh, viết danh Thập, ngã đồng hương Kỳ Quang chi tử, Lịnh Ất chi tôn. Nhân tòng nghiệp sư Nguyên du học Thanh Hoa. Bất hạnh sư cố, nhữ diệc bệnh, bất vi sư gia sở dung, ai cầu tương tuất. Kỳ Quang, Lịnh Ất, dư hương nhân dã. Nhiên Quang phi Ất tử, Ất phi Quang phụ. Dĩ thử tri nhữ phi ngã đồng hương. Tái tuân chi, viết Quán La Cai tổng Hiến chi ngoại tôn, Đông Kiều Đội trưởng Phái chi thân tử. Tổng Hiến, Đội Phái, dư bất tri thị hà nhân. Sư Nguyên dư diệc vị văn kỳ danh dã. Liên nhữ vô y, nãi diên y chẩn mạch. Dữ chi tiền cập thang dược nhi khiển chi. Việt ngũ nhật, nhữ tái lai, tắc bệnh dũ trọng. Dư dĩ kỳ hứa tương tế, toại lưu chi, diên y điều trị. Tam tứ nhật gian bất hiệu. Thời nhân hữu bắc quy giả, tái vấn kỳ tường, dĩ trí thư nhữ gia. Nhữ thuỷ ngôn tính Nguyễn danh Văn Diễn, phụ Phái tức Thiếu Cáo? chi dưỡng tử.
Ta hồ !Thiếu Cáo?, dư ấu tằng văn kỳ hữu lực giả, hà vị sử lưu lạc chí thử da? Nhữ thuỷ mạo ngã đồng hương, cái dục giả lý hãn chi tình động ngã dã. Nhiên bất tri hà cố nãi ẩn kỳ danh, hựu bất tri hà cố bất khẳng thực thuyết kỳ hệ thuộc. Tương dĩ kỳ phú khủng nhân chi vọng báo da? Ức sỉ kỳ lưu trệ cố huý đàm kỳ tổ da? Dư văn nhữ chi thị hành, nhữ phụ tha xuất, như mẫu hứa chi hành dã, thiên lý tòng sư, vi kỳ hiền da. Tắc sư Nguyên tố vô văn giả, vi kỳ dưỡng da? Tắc nhữ lượng phi cùng nhi vô cáo giả, hồ vi nhi chí thử da? Nhữ chi sở ngôn, dư chi sở văn, quả dĩ giai tận thực da? Thị da phi da? Giai bất khả đắc nhi vấn dã. Tuy nhiên, nhữ chi thuỷ chung, cố bất khả tất, nhi nhữ chi bệnh hoạn, thực tắc khả liên. Trắc ẩn chi tâm, nhân giai hữu chi. Dư chi ư nhữ, sở vị trắc ẩn chi tâm giả dã, tha yên sở vấn tai? Dư sơ vị nhữ chi bệnh, tất bất tử, bất quá thang dược điều dưỡng tuần nhật nhi dũ. Sĩ kỳ bình phục, ngộ hữu bắc quy giả, dư chi tư phủ khiển quy, tỉ nhữ phụ tử tương kiến. Thị diệc vi nhữ phương tiện, tư dư sơ ý dã. Tỉ hậu nhữ bệnh nhật thang dược phất hiệu, dư như ưu nhữ chi tử, nhiên ư nghĩa hựu bất khí. Cái khí nhữ tắc tất tốc nhữ nhất nhật chi tử, ư tâm hà nhẫn!... chi cửu tử hĩ, dư tận tâm yên. Nhi hoặc nhất sinh chi lý, thử tắc nhữ chi phúc, chính dư chi nguyện dã.
Ô hô! Thục vị bất năng tế nhữ chi sinh, nhi toại chí ư tống nhữ chi tử da! Dư thực bất tiếu. Cố chí kim ngũ nhẫm, do yêm ư tự như(1) chi trường. Ta nhữ hà cô, nãi chí thử nhi vi linh ngữ chi quỷ da? Nhữ chi mệnh thành bạc hĩ. Nhiên dư diệc lương đức, nhữ thác phi kỳ sở. Thử sở dĩ bất năng tí nhữ chi sinh dã. Ô hô thương tai !
Dịch nghĩa
Bài văn tế chôn người trẻ tuổi lưu lạc
(Lữ đồng tên Nguyễn Văn Diễn, không biết người ở đâu. Vì đang mắc bệnh, được cho ở nhờ và chăm sóc thuốc thang, nhưng do bệnh nặng, qua mười tám ngày thì chết.)
Ô hô! Lữ đồng, ngươi là ai? Sao đột nhiên đến đây? Rồi sao lại đột nhiên đi mất? Ngày sóc nguyệt (mồng 1) ngươi gặp ta nơi ngục thất. Ta hỏi tên gì, ngươi nói tên Thập, con trai của Kỳ Quang, cháu nội của Lệnh Ất, đều là những người đồng hương với ta. Nhân vì theo học thầy Nguyên tận xứ Thanh Hoa, sau đó chẳng may thầy mất, thân ngươi lại mang tật bệnh, chẳng được nhà thầy cưu mang, trong cơn hoạn nạn rất cần người cứu giúp.
Kỳ Quang và Lệnh Ất đúng là đồng hương với ta, nhưng Kỳ Quang không phải con trai Lệnh Ât, Lệnh Ất cũng không phải thân phụ Kỳ Quang. Mới biết rằng ngươi không phải đồng
1 Tự như: Lấy ý từ Thi kinh-“Ngụy phong”-“Tự như” châm biếm việc tiết kiệm không đúng lễ. Ở đây ý nói tác giả cảm thấy mình chưa tận tâm tận lực cứu giúp người, đến nỗi lữ đồng phải chết.
hương với ta. Ta lại hỏi, thì ngươi lại nói, là cháu ngoại của Cai tổng Hiến ở Quán La, con ruột của Đội trưởng Phái ở Đông Kiều. Tổng Hiến và Đội Phái, thật tình ta chẳng biết là ai. Thầy Nguyên, ta cũng chưa từng nghe tên người ấy. Chỉ vì thương ngươi tứ cố vô thân, nên mời thầy thuốc xem mạch. Ta cho tiền làm lộ phí, mua thêm thuốc thang rồi tiễn người trở về.
Qua năm ngày sau ngươi trở lại, lúc này bệnh càng nguy cấp. Ta cho ngươi ở lại, mời thầy điều trị, nhưng ba bốn ngày bệnh tình không thuyên giảm. Lúc ấy, nhân có người ra bắc, ta mới hỏi lại rò ngọn ngành rồi viết thư gửi cho người nhà của ngươi. Ngươi mới nói họ Nguyễn tên Văn Diễn, Đội Phái cha ngươi chính là con nuôi của Thiếu Cáo(?).
Chao ôi! Ta lúc còn bé đã từng nghe danh Thiếu Cáo(?) là người dũng mãnh, sao đến nỗi phiêu bạt thế này? Trước kia ngươi mạo nhận là đồng hương của ta, có lẽ định lấy tình làng nghĩa xóm gây xúc động lòng ta. Nhưng không hiểu sao ngươi không nói rò tên họ. Lại không biết vì sao ngươi không khai thật những người thân thuộc. Sợ biết nhà ngươi giàu có mà đòi đền ơn trả nghĩa? Hay sợ để ngươi lưu lạc mà ông bà cha mẹ bị thiên hạ chê cười? Ta nghe ngươi nói việc làm [đi học nơi xa] của ngươi, cha ngươi thì rày đây mai đó, còn mẹ ngươi cũng cho phép ngươi đi xa ngàn dặm tầm sư học đạo, mà cho rằng đáng khen ư?
Những điều ngươi nói, những điều ta nghe, đều là sự thật chăng? Đều đúng chăng? Đều sai chăng? Đều không biết hỏi ai cho tỏ tường đen trắng. Tuy trước sau không thể biết rò về ngươi, nhưng bệnh tình của người thì thật đáng thương xót. Đã là con người, ai không có lòng trắc ẩn! Ta giúp ngươi cũng chính vì lòng trắc ẩn, vậy thì những việc khác đâu cần hỏi làm gì!
Trước kia ta cho rằng bệnh của ngươi chắc chắn chữa khỏi, trong vòng tuần nhật thuốc thang sức khỏe sẽ nhanh chóng phục hồi. Khi ngươi bình phục, xem có ai về Bắc, ta lo gạo nước gửi gắm đưa ngươi trở về, để cha con ngươi sớm ngày đoàn tụ. Thật là ý của ta muốn giúp ngươi đến nơi đến chốn.
Sau đó bệnh của ngươi thuốc thang mỗi ngày vẫn không hiệu quả. Ta sợ ngươi không qua khỏi, vẫn tận tình chăm sóc. Vì biết rằng, nếu bỏ mặc ngươi một ngày là ngươi chết sớm một ngày. Lòng ta sao nỡ! Nếu giành được một phần sống trong chín phần chết, đó là phúc của ngươi, mà cũng là sở nguyện của ta.
Ôi thôi! Đã không thể cứu chữa ngươi, lại phải đưa ngươi về miền đất lạnh, ta thật vô dụng bất tài. Cho nên, năm năm trôi qua, ta vẫn cảm thấy mình có lỗi vì chưa tận lực tận tâm cứu giúp người trong cơn hoạn nạn. Thương cho ngươi có tội tình gì mà sớm lọt vào vòng tay quỷ sứ? Tại ngươi mệnh bạc? Hay tại ta đức mỏng? Ngươi nương nhờ không đúng chỗ đúng người, nên không thể cứu ngươi được sống. Ôi thôi! Thương thay!
BÀI 17. 代擬天朝祭田州三將文 (4; 86a)
戊申年,天朝出三省軍,護黎皇恢復。至己酉年1789正月初五日,與西賊戰于昇龍城埬多處,三將俱死。立庙祠之。四方弧矢,男子初心;萬里劍弓,英雄終事。惟三將:華夏奇才;帥科傑擧。障嶺外金戈凛烈,逺期班子之功名;羅城邊火炮鏗轟,忽墜伏波之智慮。緬懷聞磬之悲;深慨如山之死。忠魂逺返於天邊;義骨空埋於江渚。即地焄熇千古
,難泯同賞之功;當途潦草一筳,姑表由衷之緒。
Đại nghĩ Thiên triều tế Điền Châu tam tướngvăn
Mậu Thân niên, Thiên triều xuất tam tỉnh quân, hộ Lê hoàng khôi phục. Chí Kỷ Dậu niên chính nguyệt sơ ngũ nhật, dữ Tây tặc chiến vu Thăng Long thành Đống Đa xứ, tam tướng câu tử. Lập miếu từ chi.
Tứ phương hồ thỉ(1), nam tử sơ tâm; Vạn lý kiếm cung, anh hùng chung sự. Duy tam tướng:
Hoa Hạ kỳ tài; Soái khoa kiệt cử.
Chướng Lĩnh Ngoại kim qua lẫm liệt, viễn kỳ Ban Tử(2) chi công danh; La thành biên hoả pháo khanh oanh, hốt truỵ Phục Ba chi trí lự.
Miến hoài văn khánh chi bi(3); Thâm khái như sơn chi tử(4).
Trung hồn viễn phản ư thiên biên; Nghĩa cốt không mai ư giang chử.
Tức địa huân cao thiên cổ, nan dân đồng thưởng chi công; Đương đồ lạo thảo nhất diên, cô biểu do trung(5) chi tự.
Dịch nghĩa
Bài văn thay Thiên triều tế ba tướng Điền Châu
Năm Mậu Thân (1788), Thiên triều phái đội quân ba tỉnh sang giúp vua Lê khôi phục hoàng đồ. Đến ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), [quân Thiên triều] đánh với giặc Tây [Sơn] tại gò Đống Đa thuộc thành Thăng Long, ba tướng đều tử trận. Ba vị ấy được lập miếu thờ.
Bốn phương hồ thỉ, bẩm tính nam nhi; Ngàn dặm kiếm cung, vốn trang hào kiệt.
1 Hồ thỉ: Cung tên. Ngày xưa ở Trung Quốc khi sinh con trai thì treo cung và tên trên cửa trái, ý nói chí nam nhi dọc ngang trời đất.
2 Ban Tử: Ban Dũng (con của Ban Siêu), người An Lăng thời Đông Hán. Niên hiệu An Đế, Hung Nô nổi loạn, Dũng
được cử làm Trưởng sử Tây Vực, có công bình Hung Nô, lập lại trị an vùng biên địa. Ở đây nói về tài năng của ba vị tướng.
3 Văn khánh chi bi: Chung Tử Kỳ đang đêm nghe có người đánh khánh, tiếng phát ra rất là bi ai. Mới hỏi: “Tiếng khánh ngươi gò sao bi ai đến vậy?” Người ấy đáp: “Cha tôi vô ý giết người, bị xử tử. Mẹ tôi tuy được sống, nhưng bị
bắt vào phủ nấu rượu cho nhà quan; Tôi tuy được sống, nhưng phải đánh khánh hầu quan. Tôi không gặp mẹ đã 3 năm, tối qua gặp mẹ, muốn chuộc mẹ lại chẳng có tiền, bản thân tôi cũng thuộc về nhà quan rồi. Vì thế mà tiếng khánh bi ai.” Tử Kỳ nghe xong than rằng: “Bi ai thay! Bi ai thay! Tâm không phải tay, tay không phải đá, cũng không phải dùi. Nên biết, nỗi bi ai chất chứa trong lòng mà ứng vào dùi và đá.” Người quân tử trong lòng có điều cảm khái thì biểu lộ ra nét mặt; Chính mình có điều cảm khái sẽ lan truyền đến người khác, cần chi đến ngôn từ! (Lã thị xuân thu) Ở đây chỉ lòng thương tiếc ba tướng.
4 Như sơn chi tử: Cái chết nặng như núi Thái Sơn, ý nói hi sinh vì đại nghĩa, mọi người đều thương tiếc. Thơ Khuất Đại Quân (đời Thanh) có câu: “Nam nhi đắc tử sở, kỳ trọng như sơn khâu.” (Cái chết của đấng nam nhi vì đại nghĩa nặng như núi gò)
5 Do trung 由衷: Cũng như 猶衷, thành ý xuất phát tự trong lòng.