trân trọng đặt Thế Lữ ở vị trí đầu tiên. Và trong tiểu luận Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh tôn vinh Thế Lữ là "đệ nhất thi sĩ".
Tóm lại, qua diễn biến cuộc tranh luận Thơ mới - Thơ cũ, luận văn rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất: Cuộc tranh luận giữa Thơ mới và Thơ cũ là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một bên giành quyền sống và một bên giữ quyền tồn tại.
Thứ hai: Những bài tham gia tranh luận của Thế Lữ có giá trị đặc biệt. Trong ba năm đầu (1932 - 1935), ông đã có những bài viết công bố ở những báo khác nhau. Với một cảm quan nhạy bén, lý luận sắc sảo ông đã góp phần không nhỏ cho sự thắng lợi của Thơ mới trên bình diện lý thuyết.
Thứ ba: Không phô trương diễn thuyết suông, Thế Lữ đã dành cả tâm huyết của mình cho những sáng tác cụ thể. Ở những sáng tác này, Thế Lữ đã thể hiện rõ những phẩm chất cách tân để đưa Thơ mới đến toàn thắng, góp phần hoàn thiện nền văn học theo hướng hiện đại hoá.
Chương 2
NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN TRONG THƠ THẾ LỮ
2.1. QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA THẾ LỮ - MỘT BƯỚC TIẾN SO VỚI QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại
Văn học trung đại là một loại hình văn học, sản phẩm của xã hội xây dựng trên nền tảng các quan hệ phong kiến mang dấu ấn đẳng cấp, dấu ấn hệ tư tưởng tôn giáo. Nên nhìn chung, văn học trung đại dường như chưa nói được cái đẹp của đời sống hàng ngày mà chủ yếu thường dùng các hình ảnh tượng trưng, ước lệ hay những điển tích, điển cổ.
Có thể bạn quan tâm!
- Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - 2
- Sự Nở Rộ Và Phát Triển Các Khuynh Hướng, Nhóm Phái Văn Học
- Cuộc Đấu Tranh Giữa Thơ Mới Và Thơ Cũ
- Những Cách Tân Về Hình Thức Và Nội Dung Nghệ Thuật
- Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - 7
- Cách Tân Về Hình Thức (Hình Thức Biểu Hiện)
Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.
Văn học trung đại nói chung cũng như thơ ca nói riêng dường như không đi sâu vào cái "tôi" cá nhân mà chỉ nói đến cái "ta" chung của mọi người. Tình cảm của họ nằm trong khuôn phép chung của xã hội. Vì thế, khi nữ sĩ Thanh Quan đứng trên đỉnh Đèo Ngang, tầm mắt của bà chỉ thấy cảnh đẹp của đất nước và trước cảnh đẹp bao la ấy, bà nghĩ đến nước mà đau lòng. Tâm trạng của bà là tâm trạng chung của dân tộc.
Tính chất ước lệ trở thành hình thức nổi bật biểu hiện của thơ ca trung đại. Đó là tính chất tập cổ, tính quy phạm, tính công thức, sáo ngữ và cách dùng các điển cố, điển tích là hết sức phổ biến. I.U.Lotman miêu tả phương pháp sáng tác thời trung đại qua khái niệm "mỹ học đồng nhất" - một khái niệm chung cho văn học dân gian và văn học viết Trung đại. Đó là sự đồng nhất hoàn toàn tính hình tượng trong cuộc sống được miêu tả với các mô hình, công thức mà người xem (công chúng) đã biết được và đưa vào hệ thống các quy tắc sáng tác. Cơ sở nhận thức của nó là san bằng các hình tượng đa dạng khác nhau của cuộc sống để đưa vào mô hình lôgic nhất định.
B.AGiupxốp cho rằng: "Nhà văn trung đại không sáng tạo ra cốt truyện, anh ta dường như chỉ kể lại và tổ hợp lại các môtíp đã có từ lâu bằng văn xuôi hay văn vần".
Văn học trung đại thường dùng sáo ngữ, công thức trong tường thuật, miêu tả, định danh, sử dụng chất liệu ngôn ngữ cao quý đầy hoán dụ, ví von làm cho lời văn được mỹ lệ: tường gấm, mặt hoa, nghìn vàng giọt ngọc, tính nghi thức đòi hỏi miêu tả từng loại vật phải tuân theo yêu cầu của từng loại nhân vật ấy. Chẳng hạn, miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên là gằn liền với các hình ảnh tùng, cúc, trúc, mai. Miêu tả con người phải gắn liền với dấu ấn của vũ trụ. Vũ trụ ở đây là đất trời, mây nước, mặt trăng, mặt trời, sấm, chớp, mưa, gió, cây cỏ, muông thú... với cái đạo bền vững sâu thẳm của nó. Con người thấy chân dung của mình trong dáng liễu, dáng mai, vóc hạc, mình ve, tóc mây, mắt phượng, mây sóng... Khi làm một bài thơ "tay tiên gió táp mưa sa" đã có dáng dấp của vũ trụ. Khi khóc người yêu "vật mình vẫy gió tuôn mưa" hoặc khi chuẩn bị đi thi "sứ trời đã giục đường mây" hoặc khi có một hành động ngang tàng "vòng trời đất dọc ngang ngang dọc – Nợ tang bồng vay trả trả vay..." ta thấy hình ảnh con người luôn được đặt trên bối cảnh của vũ trụ. Đó là cảm thức chung của cả một mô hình văn học, một thời đại văn học. Các nhà văn hầu như không bao giờ hình dung cảnh sắc thiên nhiên và con người trong dáng vẻ đời thường vì như thế nó tầm thường, không đẹp. Các nhà thơ trung đại luôn lấy thiên nhiên làm trung tâm, là ngọn nguồn ban phát các phẩm chất của nó cho con người. Thiên nhiên là mẫu mực để hình dung ngoại hình con người. Chẳng hạn, đoạn thơ miêu tả Thuý Vân của Nguyễn Du:
"Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Nhà thơ miêu tả sắc đẹp của nhân vật qua các chi tiết khuôn trăng, nét ngài, hoa, ngọc, mây, tuyết, là các chi tiết thuộc thế giới thiên nhiên, vũ trụ có tính chất cao quý vĩnh viễn, không mang tính xác thịt trần tục, do đó cũng không thấy dấu ấn cá nhân, cá tính. Mặt khác, nhà thơ không tả cảnh không vẽ bức tranh thiên nhiên, mà hoa, ngọc, mây, tuyết dùng như một phép so sánh chứ không phải là đối tượng miêu tả mà đối tượng miêu tả ở đây là vẻ đẹp lý tưởng của nhân vật.
Khác với văn học trung đại, văn học hiện đại là văn học của thời kỳ mà con người cá nhân tư sản mới xuất hiện, là văn học của ý thức cá tính của tác giả, của ý thức nghệ thuật tự giác trong các cương lĩnh, trào lưu. Văn học hiện đại giải phóng ngôn từ khỏi công thức để hướng tới cái đẹp. Cái đẹp của giọng điệu, của tình cảm tự nhiên, của sắc thái, của cá tính, của sự miêu tả cụ thể, tinh tế.
Trở về với văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 từ những tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn đến với văn xuôi hiện thực chủ nghĩa, đặc biệt là sự ra đời của Phong trào Thơ mới đã góp phần quan trọng mở đầu và thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc. Đây cũng là thời kỳ các nhà văn, nhà thơ bước ra một không gian rộng mở với những quan niệm nghệ thuật mới làm ngạc nhiên cả hai giới sáng tác và hưởng thụ văn chương. Mỗi nét họ đặt trên tờ giấy là cảm giác in vào hồn người đọc, rộng mở mà không gò bó. Đúng như lời Hoài Thanh, Hoài Chân nhận xét "đi sâu vào tâm hồn những cá nhân, chúng ta sẽ gặp tâm hồn dân tộc, đi sâu vào tâm hồn dân tộc chúng ta sẽ gặp tư tưởng nhân loại" [33,34].
Đại diện cho phong trào Thơ mới đưa ra một quan niệm nghệ thuật mới làm sáng rực cả bầu trời thơ những năm đầu thập kỷ 30 phải kể đến công lao của Thế Lữ - Người có công "dựng thành nền Thơ mới ở xứ sở này" [34] với một giọng điệu riêng, một sự cách tân táo bạo.
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ
Trong chặng đường đầu Thơ mới lãng mạn, rất nhiều những cây bút nổi lên cùng thời với Thế Lữ như Lưu Trọng Lư, Huy Thông và sau này là Nguyễn Nhược Pháp. Nếu hồn thơ Lưu Trọng Lư mơ màng và buồn xa vắng, của Huy Thông hùng tráng, mạnh mẽ thì hồn thơ Nguyễn Nhược Pháp hồn nhiên, vui tươi, trong sáng... Tất cả những hồn thơ ấy đều có sức khơi gợi rất lớn trong lòng công chúng độc giả bấy giờ.
Nhưng những đặc sắc qua tập "Mấy vần thơ" đã đưa Thế Lữ lên bậc hàng đầu tiêu biểu cho phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Đúng như lời nhận xét của Hoài Thanh, Hoài Chân... "Bởi vì không có gì khiến người ta tin ở Thơ mới hơn là đọc những bài Thơ mới hay. Mà thơ Thế Lữ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần cho đến tiết tấu âm thanh. Đọc những câu thơ:
"Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hàng. Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc"
Thì không ai có thể bĩu môi trước cuộc cách mạng về thi ca đương nổi dậy... Thế Lữ đã làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch" [34, 58].
Có được sự cách tân táo bạo trong thơ ca như vậy là nhờ Thế Lữ có quan niệm nghệ thuật hết sức mới mẻ. Có thể nói từ thuở thơ ấu đến tuổi trưởng thành khi đạt vinh quang về thơ ca và sau đó là những thành tựu về văn xuôi nghệ thuật, về hoạt động sân khấu cũng là khi hình thành và hoàn chỉnh một quan niệm nghệ thuật mới. Với quan niệm nghệ thuật này ông đã
nêu lên tuyên ngôn nghệ thuật chung của một thế hệ nghệ sĩ đầu tiên của văn học hiện đại Việt Nam.
Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ đánh dấu một trình độ phát triển có tính bước ngoặt của ý thức nghệ thuật trong văn học Việt Nam những năm đầu thập kỷ 30. Đó là ý thức tự giác của chủ thể sáng tạo về nghệ thuật bắt rễ và sàng lọc từ chủ nghĩa lãng mạn thịnh hành ở phương Tây khoảng thế kỷ XIX với lý thuyết "vị nghệ thuật" của Theophine Gautier chủ trương tôn thờ cái đẹp tuyệt đối, chủ trương hoạt động và sáng tạo nghệ thuật trước tiên và cuối cùng chỉ vì nghệ thuật, vì cái đẹp. Nhà phê bình Biêlinxki từng nói: "Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lý". Thế Lữ có sự kết hợp hài hoà giữa cách cảm, cách nghĩ của người Việt với quan niệm của phương Tây làm nảy sinh quan niệm nghệ thuật mới và làm nên một "thời đại trong thi ca".
Bao trùm nên quan niệm nghệ thuật chung nhất của Thế Lữ là quan niệm về cái đẹp. Với Thế Lữ cái đẹp được biểu hiện trước hết ở người nghệ sĩ, ở văn chương nghệ thuật và ở nghiệp văn. Bởi vậy, nghệ thuật là cái đẹp và cái đẹp là nghệ thuật. Trong báo Ngày nay (số 92 năm 1937), ông viết "Vẽ lại bức tranh chưa vừa ý, uốn nắn những nét còn thô sơ; bỏ hẳn một bài văn để viết lại bài khác hoàn toàn hơn; lựa chọn những lời thích đáng với những ý tưởng trong một bài thơ; đó là sự can đảm của nhà nghệ sĩ. Sự can đảm ấy tỏ ra lòng yêu mến nghệ thuật mà là sự yêu mến thành thực, trong đó bao sự băn khoăn, ngờ vực, cay đắng, trước khi thấy hạnh phúc của vẻ đẹp anh lính".
Cái đẹp theo Thế Lữ quan niệm là cái đẹp rộng mở, muôn màu. Cái đẹp "là chốn em quen cười với gió/ với trăng, với nước, với mây bay" (Lời than thở của nàng Mỹ thuật), cái đẹp là "mộng vàng trên cảnh lộng trời mây" (Lựa tiếng đàn). Đặc biệt với Cây đàn muôn điệu, Thế Lữ đã đưa ra một quan niệm
nghệ thuật hết sức mới mẻ, được coi là bản tuyên ngôn nghệ thuật của phong trào Thơ mới. Nguyễn Đăng Điệp nhận xét "Người mở đường cho sự thắng lợi của phong trào thơ ca này, trong bài Cây đàn muôn điệu đã sử dụng tới 15 lần chữ "tôi" (trên tổng số 36 dòng thơ). Muôn điệu chính là sự đa dạng của cảm xúc, nó tạo ra tính mở cửa của Thơ mới" [47,197-198]. Cây đàn muôn điệu và Nhớ rừng là hai trong số những bài thơ mới được tập thể các nhà thơ mới, nhà nghiên cứu bình chọn in vào sách 1993. Thế Lữ đã từng tâm sự "Tôi không có ý định làm một bản tuyên ngôn nghệ thuật, tôi chỉ muốn với Cây đàn muôn điệu nói lên một khát vọng khẩn thiết bằng thi ca, nói rõ cả tâm tư, tình cảm của mình (...) Lực bất tòng tâm, tôi chỉ thực hiện được một phần rất nhỏ của bản tuyên ngôn ấy nếu bài thơ ấy là bản tuyên ngôn của phong trào Thơ mới thì chúng ta có thể tự hào: phong trào Thơ mới đã thực hiện xuất sắc bản tuyên ngôn ấy" [20].
Với Cây đàn muôn điệu Thế Lữ đã bộc lộ rõ cái "tôi" chủ thể của mình khi nói về cái đẹp. Cái "tôi" thi sĩ đã mở rộng ra để ngân vang với mọi cung bậc của cuộc đời với tất cả những buồn, đau, sướng khổ... của mọi kiếp người.
"Với nàng Thơ, tôi có đàn muôn điệu, Với nàng Thơ, tôi có bút muôn màu. Tôi muốn làm nhà nghệ sĩ nhiệm màu, Lấy thanh sắc trần gian làm tài liệu"
Khác hẳn với cái đẹp trong văn học trung đại, nếu cái đẹp trong văn học trung đại thuộc về quá khứ gắn liền với những hình ảnh thanh cao như tùng, cúc, trúc mai, nó mang tính lý tưởng thể hiện trong "Đạo" trong "chí" thì giờ đây cái đẹp hiện ngay trong cuộc sống hiện tại xung quanh mình. Với Thế Lữ, thiên nhiên kỳ thú có bao nhiêu vẻ đẹp thì hồn thơ ông có bấy nhiêu rung cảm: một dáng yêu kiều thướt tha của giai nhân, một ngày âm thầm sầu muộn, một sáng tưng bừng nắng xuân, một thác ngàn đổ nghiêng trời, một cảnh cơ
hàn nơi nước đọng, bùn lầy... Tất cả đều níu kéo mời mọc nhà thơ. Trước các sắc màu lung linh hoàn vũ và vẻ đẹp huyền bí của vũ trụ, nhà thơ khao khát chiếm lĩnh và say sưa tận hưởng. Ở đâu ông cũng trưng cầu và phát hiện ra vẻ đẹp. Nhà thơ:
"Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc câu cười Trong lúc gian lao, trong giờ sung sướng.
Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng, Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm than.
Cảnh thương tâm, ghê gớm hay dịu dàng, Cảnh rực rỡ ái ân hay dữ dội".
(Cây đàn muôn điệu)
Mặc dù say sưa đi tìm cái đẹp ở mọi nơi, mọi chốn nhưng ông vẫn không hoàn toàn xa rời đời sống, xa rời hiện thực. Nhà thơ tìm vẻ đẹp của thiên nhiên, tìm đến vẻ đẹp yêu kiều của nhan sắc giai nhân trong Tiếng trúc tuyệt vời và Tiếng hát bên sông. Thế Lữ đã dựng lên nhiều giấc mơ huyền ảo đối lập với hiện thực. Mặc dù vậy, Thế Lữ vẫn tìm đến vẻ đẹp của "thi nhân", "tư tưởng" vẫn rung động trước "những cảnh cơ hàn nơi nước đọng, bùn lầy", vẫn "cảm khái bởi những lời hăng hái", "vẫn ngợi ca với tấm lòng phấn khởi". Tức là con người chỉ tự nhận mình là lữ khách của trần thế và tuyên bố chỉ "xuôi ngược để vui chơi" ấy vẫn xúc động trước nỗi đau của đồng loại, vẫn hướng tới những vẻ đẹp cao siêu hùng tráng của non nước, của "thi văn tư tưởng" với một thái độ sống hăng hái, khoẻ khoắn, tích cực. Điều đó cho thấy, Thế Lữ vẫn nặng lòng với cuộc đời và xét cho cùng thì quả không phải hoàn toàn "nghệ thuật vị nghệ thuật" là thoát ly. Cái đẹp mà Thế Lữ say mê săn tìm chủ yếu vẫn là cái đẹp phong phú của thế giới sự sống, không phải cái đẹp "thuần tuý" trừu