Đồng bối hạnh hoạch tế, mạc sử như mạn cát. Tiết phẫn dữ thân oan, tử hề hưu uyển đát.
Bội nghịch vô bất vi, thiết câu cự xuyên cát. Thị nhân lệ tận thùy, di tặc phách giai đoạt. Ai tai Lê Cao Dòng, phú chất tối hậu trọng.
Đức xỉ vi Hương trưởng, sinh nhai vụ điền lũng. Tử đệ hứa quyên tí, nhất cấp đăng nhàn nhũng(1). Bản vi tế bần tâm, hà tằng hoạn tài túc.
Thích tư hải phân đằng, mộ binh dục phòng ủng. Bất liệu hổ báo cô, phản bị sài lang ủng.
Ngang nhiên đối tặc quần, thần sắc vô hoàng tủng. Bất khẳng luỵ đồng nhân, tự đương khí hà tủng.
Dao đầu phục bế khẩu, mê dược nan ố chúng. Khởi thức Tây chủ pháp, ngô chủ tắc ngô phụng. Cố vị hương lân nhân, vật hoặc bỉ túng dũng.
Thị ngã sinh như hà, tử diệc bất tháp nhũng. Đương niệm thuỷ thổ ân, thù phục chí khắc củng. Di lâu an năng cửu, tương kiến táng vô trủng.
Độc thủ hiển phương danh, nghị phách tuỳ tinh củng. Ai tai lưỡng nam nhi, trung nghĩa như tương kỳ.
Khởi bất tích thân mệnh, thân mệnh quan bỉnh di(2).
Có thể bạn quan tâm!
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 32
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 33
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 34
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 36
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 37
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 38
Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.
Khởi bất ái thê tử, thê tử giai kỷ tư.
Thành nhân dữ thủ nghĩa(3), kiều khiếp(4) hề năng vi. Tất dã liệt trượng phu, lý hiểm phương như di.
Bích huyết tung dĩ hoá, đan tâm chung bất di. Sơn hà vị sinh sắc, mộc thạch diệc hàm bi.
Bỉ trương huy dương xỉ, thị thử thành nan kỳ. Tuy do nhĩ cao hạnh, bồi dưỡng nguyên hữu tư:
1 Nhàn nhũng: Chức quan nhỏ, nhàn tản.
2 Bỉnh di: Luôn giữ vững đạo nghĩa trong lòng.
3 Thành nhân: Luận ngữ “Vệ Linh Công”: “Chí sĩ nhân nhân vô cầu sanh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân.”
(Người có chí và người có nhân không vì muốn sống mà hại đức nhân, mà có lúc lấy cái chết để giữ tròn đức nhân); Thủ nghĩa: Mạnh Tử “Cáo Tử”: “Sinh diệc ngã sở dục dã, nghĩa diệc ngã sở dục dã, nhị giả bất khả đắc kiêm, xả sinh nhi thủ nghĩa giả dã.” (Sự sống ta cũng ham, việc nghĩa ta cũng muốn, nếu không được cả hai thì bỏ thân mà giữ điều nghĩa vậy.)
4 Kiều khiếp: Tả dáng nữ nhi lướt thướt.
“Lịch triều đức trạch thâm, tự hữu hưng cảm tư. Huống phục chính giáo túc, sĩ thứ đôn thao trì. Trung hưng cập bình nguỵ, dĩ văn thanh dự trì. Nam Kỳ trung nghĩa thanh, bất đặc vu kim tư.” Nhân thời ích khả kiến, thuỷ chung tuân bất khuy. Lãm tấu thực kham tráng, tráng chi hoàn khốc chi. Niệm bỉ tại quyến mẫu, kháng khái do phó nguy. Thảng nhược thụ sủng lộc, mưu quốc đương tư tư. Dữ tặc bất lưỡng lập, ngã sư ninh cửu bì.
Hận dư phạp thuỷ giám(1), thảo dã hiền vòng tri.
Hựu hận tuần tuyên thần(2), minh dương vô nãi trì. Tặng ấm(3) viên đặc gia, tuất điển(4) tăng hậu thi. Thả mệnh Thái sử ký, cánh lệnh giai lập từ.
Bao thù lượng dĩ cực, điệu tích do vị suy. Lệnh đức khủng bất hiển, khẩn khoản thị si từ.
Thô trường mạc yếm phức, chỉ hoạn do khuyết di. Khởi cẩn lệ phong tục, thả vi vạn thế qui.
Ai tai lưỡng nam nhi, nhất tử thiên niên thuỳ.
Dịch nghĩa
Khóc Cử nhân được truy tặng hàm Tri phủ Phan Văn Đạt, Hương thân được truy tặng hàm Suất đội Lê Cao Dòng
Thương ôi Phan Văn Đạt, gừng quế tính vốn cay. Tráng niên vui tường tự, mùa thu dự khoa kỳ.
Tứ hải rày vô sự, vào triều giải bố y.
Hốt nhiên loạn giặc dữ, khắp nơi đầy chó Tây. Ngang nhiên chiếm vương thổ, đoạt tài sản dân cày. Lửa độc ba bè lũ, đồ độc bao người ngay.
Tất cả vì tham thố, tội ác biển không tầy. Hưng binh sợ dân khổ, bắt cá lo sông vầy.
Địch khái lòng phẫn nộ, bách tính đều gớm ghê.
1 Thủy giám: Nước trong gương sáng, dùng chỉ người hiểu biết.
2 Tuần tuyên: Lấy từ Kinh Thi “Vương mệnh Thiệu Hổ, lai tuần lai tuyên” (Vua sai Thiệu Hổ, đi khắp nơi truyền chính lệnh của vua). Tuần tuyên thần: Chỉ người làm quan.
3 Tặng ấm: Ban thưởng cho con cháu của những người hi sinh vì việc nước.
4 Tuất điển: Truy thưởng cho người chết vì việc nước.
Huống chi người học chữ, bút mực nay ích gì. Dấn thân vào trướng lữ, thề diệt quân vô nghì. Tay hùm vuốt râu hổ, tấm thân giờ đoái chi.
Căm thay phường hung bạo, cỏ cứng đành nhổ đi. Ưng chiên trong lồng nhỏ, hận nghe loài kiêu si. Tóc giận dường xuyên mũ, mắt đanh sét chẳng bì. Đứng giữa bọn cường lỗ, kiên cường chí nam nhi. Chúng mày loài giặc cỏ, đến đâu người kêu rêu. Bây làm điều trái đạo, việc việc đều gian phi.
Ta chưa chặt hết sỏ, chẳng tiếc chi thân này.
Chết nguyện làm súng nỏ, trợ binh cùng giết Tây. Gửi lời các em chú, đại sự luôn chỉnh tề.
Đồng bối may còn đó, chớ để thù giương vây. Oán hận đầy tạng phủ, chết đi oán vẫn đầy.
Sài lang càn vô độ, giết người chẳng gớm tay. Câu sắt treo đầu cổ, tinh thần càng hăng say. Dân chúng tràn lệ đỏ, nghịch tặc hồn phiêu phi.
Thương thay Lê Cao Dòng, trọng hậu tánh không ngoài. Hương trưởng đầy đức độ, nghề nông kế sinh nhai.
Con em quyên tiền của, nhất cấp hàm quan sai. Vốn thương dân nghèo khó, đâu từng tham của tài. Kẻ thù gây bão tố, tòng binh giữ biển trời.
Bầy sói lang hùng hổ, mãnh hổ đành lâm nguy. Thần sắc không lo sợ, diệt thù tâm chẳng lay. Đồng chí không khai báo, anh hùng bền chí thay. Lắc đầu miệng chẳng mở, mồi ngon nào vui say. Vua Tây dân Tây sợ, vua ta dân ta hoài.
Đồng bào ơi hãy nhớ, chớ nghe Tây xúi bày. Thân này như thế đó, dẫu chết tâm sáng ngời. Sâu dày ơn quốc thổ, báo thù luôn khắc ghi. Đầu giặc nào yên chỗ, thây phơi loài quạ dơi.
Thương thay nhị nam tử, trung nghĩa như hẹn thề. Há coi thường sinh tử, đem mệnh theo đạo nghì. Há chẳng tình thê tử, vợ con tình riêng tây.
Nhân thành cùng nghĩa thủ, tình riêng nào sá chi. Phải là trang nam tử, hiểm nguy mới rò tài.
Máu hồng hòa đất tổ, lòng son chẳng đổi dời. Cỏ cây đều than thở, sông núi cũng ngậm ngùi. Mắt nanh đầy oai vũ, trần gian ai dám bì.
Chí tài nay có đủ, từ lâu đã hun bồi.
Triều đình ân đức hậu, lòng người phơi phới vui. Thánh vương nghiêm giáo hóa, sĩ thứ nghiêm chấp trì. Trung hưng và trừ bạo, uy danh vang khắp trời.
Hào kiệt vùng Nam thổ, tiếng thơm rền xưa nay. Xưa oai phong thế đó, nay oai phong cũng tầy. Xem tấu khen đáng mộ, khen rồi nước mắt rơi. Thân ông nơi đồng cỏ, hồn ông nơi biên thùy.
Ví người nhờ lộc chúa, mưu quốc luôn không rời. Quân ta thà gian khổ, cùng Tây chẳng chung trời. Hận ta kẻ bỉ lậu, hẹp hòi nào biết chi.
Lại giận phường quan lộ, việc tuyên dương trễ chầy. Tặng ấm nên đặc tứ, tuất điển càng hậu thi.
Lại sai quan chép sử, lại bảo xây miếu thờ. Báo ân rày đã đủ, thương tiếc chưa hề suy. Đức sáng hiềm chưa tỏ, thiết tha viết chúc từ. Lời thô mong lượng thứ, chỉ e còn khuyết nghi.
Không chỉ phong tục cũ, còn làm gương bao người. Thương thay nhị nam tử, hồn thiêng mãi muôn đời.
Bài 6. 祭程狀元先生文 (1; 42a)
嗚
呼!嶺山雲暗,前宮之艸木改觀;庵水波澄,吾道之源流如溯。靜思細密之絲毫;景仰雍容之衮黼。
敬惟先生!東海鍾靈;南山孕秀。聰明耳目,洪鈞賦予不爲貧;廣闊胸襟,大道蘊藏原自富。萬言遍誦,學力冠歐蘇;七步成章,詩才兼李杜。亦造其極於正大光明;不局其藝於詞章訓詁。義究詩書六籍,撑船窮夫子之津涯;理明太乙一經,燃藜照楊雄之臟腑
。經天緯地,周冢宰之心思;藏往知來,邵堯夫之門戶。道之儲滿腹經綸;文之用渾身錦鏽。飛声價於周雍魯泮,心雄驥足長途;奪高標於唐榜漢科,志銳錦衣白晝。章成未盡燭條三;榜出已呈雲色五。足先跨文門之浪,五塲士子總知名;譽遠騰理學之渊,兩國英雄無對手。出乎其類,如鳥之鳳凰,如獸之麒麟;煥乎有文,在地之山川,在天之星宿。道極其大,德極其純;體無不周,用無不具。聖人之統自先生而傳;聖人之域惟先生能做。想是粹乎其道,门已通鄒魯之宮墻;胡然生也不辰,世豈乏卢周之宇宙。吁嗟造化豈無心
;誰使聖賢多不遇。孟大賢者生於戰國干戈;顏亞圣者生於春秋風雨。諸葛不生於炎漢之盛辰;許子却値於強元之夷虜。一字時先哲且然;五百載先生何負。事非獲已,先生安得不從權;天實使之,先生即咱其所授。尺尋自己周旋;輕重于心權度。桀終無道,肯畱五就之車;梁不可行,卽卷三來之袖。止足明老氏之先机;自得樂天民之逸趣。取人為善,洒落性情;與物孚昌,逍遥農圃。蓍爻諸卦,天地之秘藏;詩集全篇,春秋之衮黼。樂天惟適於優游;卽景每懷於諷諭。光風霽月,藹
然不可名;智水仁山,綽乎有餘裕。何事非君,何樂非道,一兼之任之清;亦樂於己,亦獲於人,兩得其名其壽。學爲天下之師;年爲天下之父。櫃藏金玉,胸中商鼎周敦;擔重綱常,身上天冠地屨。節弥坚不墜丹心;志益壯寧知白首。容與喬彭歲月,正垂周衮於東郊;勤拳堯舜君民,誰促(1)魯麟於西狩。嗟時運之不齊;悵盈虛之有數。武侯星隕,伯圖難望於復刘;夫子鳳飛,王道誰將於變魯。撑天之志暗淡暮雲;浴日之功依希朝露。招書客哀思未已,有心懷商嶺之白眉;献言人瞻仰無涯,何處覔周家之黃耈。感先生者江河皆變色,水含血淚波波;思先生者虫蟻亦傷心,蛛結愁絲縷縷。千古有懷,倍切悠悠;百載而今,猶懷憮憮。雲煙冷淡,江上閒祠;花艸參差,村頭蔽宇。双峯文竹,暗疑卓立之真踪;千里大堤,總是閒遊之故步。一番市之日期依舊,市上行人喧闹,慨先生之音響已不得闻;一佛寺之基址如新,寺中遺像端莊,訝先生之容儀如有所覩。石碑乃先生所製也,慕先生而欲求其跡,則字痕深淺,苔侵石面一殘碑;榕樹乃先生所栽也,慕先生而欲卽其眞,則條幹庸疎,雪染榕頭一老樹。寒江乃先生所居也,望先生於江之表者,只見江之波江之潮;白雲乃先生自名也,望先生於雲之上者,只見雲之散雲之聚。
然而:豈惟雲哉!先生其秋陽。豈惟江哉!先生其江漢。先生之名原自在,卽秋陽之長照,江漢之長流;豈惟樹哉!先生其林藪。豈惟石哉!先生其泰山。先生之道宛然存,卽林藪之常榮,泰山之常固。骨可埋而先生之名不可埋;骨可朽而先生之名不可朽。朝野迷當局,固不足以卑先生也,而先生亦不以是為隆汚;冦盗有敬心,固不足以尊先生也,而先生亦不以是爲喜怒。渾然天理,何怨何尤;純乎道心,無好無惡。先生之節,高乎秋霜嚴凝;先生之德,純乎春風和煦。先生之學,周程張朱;先生之統,禹湯文武。人心寒霜,先生為日星;人心頹波,先生為砥柱。無少邪曲,是先生之門;所屫康莊,是先生之路。先生之行也,不立異以為高;先生之藏也,不眩名以求售。先生之存也,天下達尊;
1 Có lẽ 捉 tróc thì đúng hơn.
先生之去也,後人無斁。談先生道德,想如目之見耳之聞;誦先生文章,不覺足之蹈手之舞。桉登科實錄,而先生之姓字,昭於尺牘簡編;玩閒興諸詩,而先生之才名,溢於長章短句。百世如一日,愈遠而愈光;千古如一年,可敬而可慕。名畱於十八庵;道存於千萬古。追昔先開義理,實開道學之渊源;于今永賴作成,均入前階之規矩。挹遺光而弥切瞻依;仰先覺而不勝眷注。
Tế Trình Trạng nguyên tiên sinh văn
Lĩnh Sơn vân ám, tiền cung chi thảo mộc cải quan; Am thủy ba hàn, ngô đạo chi nguyên lưu như tố.
Tĩnh tư tế mật chi ti hào(1); Cảnh ngưỡng ung dung chi cổn phủ(2). Kính duy tiên sinh:
Đông Hải chung linh; Nam Sơn dựng tú(3).
Thông minh nhĩ mục, hồng quân phú dữ bất vi bần; Quảng khoát hung khâm, đại đạo uẩn tàng nguyên tự phú.
Vạn ngôn biến tụng, học lực quán Âu Tô(4); Thất bộ thành chương, thi tài kiêm Lý Đỗ(5). Diệc tháo kỳ cực ư chính đại quang minh; Bất cục kỳ nghệ ư từ chương huấn hỗ.
Nghĩa cứu Thi Thư(6) lục tịch, xanh thuyền cùng Phu tử(7) chi tân nhai; Lý minh Thái ất(8) nhất kinh, nhiên lê chiếu Dương Hùng(9) chi tạng phủ.
Kinh thiên vĩ địa, Chu Trủng tể(10) chi tâm tư; Tạng vãng tri lai, Thiệu Nghiêu phu(11) chi môn hộ.
Đạo chi trừ mãn phúc kinh luân; Văn chi dụng hỗn thân cẩm tú.
Phi thanh giá ư Chu Ung Lỗ Phán(12), tâm hùng ký túc trường đồ; Đoạt cao tiêu ư Đường bảng Hán khoa, chí nhuệ cẩm y bạch trú.
Chương thành vị tận chúc điều tam; Bảng xuất dĩ trình vân sắc ngũ.
Túc tiên khóa văn môn chi lãng, ngũ trường sĩ tử tổng tri danh; Dự viễn đằng lý học chi uyên, lưỡng quốc anh hùng vô đối thủ.
Xuất hồ kỳ loại, như điểu chi phụng hoàng, như thú chi kỳ lân(1); Hoán hồ hữu văn(2), tại địa chi sơn xuyên, tại thiên chi tinh tú.
1 Ti hào: Số đo lường rất nhỏ, vô cùng nhỏ bé. Ở đây ý nói đắn đo, cân nhắc vô cùng cẩn trọng.
2 Cổn phủ: Các loại lễ phục của vua và các bậc đại thần, áo cổn thêu rồng, áo phủ thêu hoa nửa đen nửa trắng như hình cái búa. Cổn phủ còn dùng chỉ vẻ sặc sỡ.
3 Chung linh dựng tú: Cũng nói Chung linh dục tú, hun đúc khí thiêng sinh ra nhân kiệt.
4 Âu Tô: Âu Dương Tu và Tô Đông Pha, hai đại văn hào đời Tống.
5 Lý Đỗ: Lý Bạch và Đỗ Phủ, hai đại thi hào đời Đường.
6 Thi Thư: Thi kinh và Thư kinh; Thi Thư lục tịch: Chỉ chung Lục kinh (hay Ngũ kinh) của Trung Quốc.
7 Phu tử: Khổng Tử, Nho gia tôn xưng là Thánh. Các bản khác đều chép là 朱子 Chu Tử, tức Chu Hy, nhà đại nho
đời Tống, chú thích bộ Tứ thư và soạn ra rất nhiều sách.
8 Thái ất: Quyển sách dạy về khoa lý số.
9 Dương Hùng: Còn gọi là Dương Tử, triết gia đời Tây Hán, làm ra sách Thái huyền và Pháp ngôn, hợp Dịch kinh và
Đạo đức kinh làm một.
10 Chu Trủng tể: Chu Công Đán, một đại thần tài giỏi phò tá Vũ vương và Thành vương nhà Chu.
11 Thiệu Nghiêu phu: Thiệu Ung, một vị đại nho đời Tống, rất am hiểu Dịch kinh, soạn sách Hoàng cực kinh thế.
12 Ung, Phán: Nhà quốc học ở các nước chư hầu thời xưa.
Đạo cực kỳ đại, đức cực kỳ thuần; Thể vô bất chu, dụng vô bất cụ.
Thánh nhân chi thống tự Tiên sinh nhi truyền; Thánh nhân chi vực duy Tiên sinh năng tố.
Tưởng thị túy hồ kỳ loại, môn dĩ thông Trâu Lỗ chi cung tường; Hồ nhiên sinh dã bất thời, thế khởi phạp Lư Chu chi vũ trụ.
Hu ta Tạo hóa khởi vô tâm; Thùy sử thánh hiền đa bất ngộ(3).
Mạnh Đại hiền(4) giả sinh ư Chiến Quốc can qua; Nhan Á thánh(5) giả sinh ư Xuân Thu phong vũ.
Gia Cát(6) bất sinh ư Viêm Hán chi thạnh thời; Hứa Tử(7) khước trị ư cường Nguyên chi di
lỗ.
Nhất tự thời tiên triết thả nhiên; Ngũ bách tải Tiên sinh hà phụ.
Sự phi hoạch dĩ, Tiên sinh an đắc bất tòng quyền; Thiên thực sử chi, Tiên sinh tức thính
kỳ sở thụ.
Xích tầm tự kỷ chu toàn; Khinh trọng vu tâm quyền độ.
Kiệt chung vô đạo, khẳng lưu ngũ tựu(8) chi xa; Lương bất khả hành, tức quyển tam lai chi
tụ(9).
Chỉ túc minh Lão thị(10) chi tiên cơ; Tự đắc lạc thiên dân(11) chi dật thú. Thủ nhân vi thiện(1), sái lạc tính tình; Dữ vật phu xương, tiêu dao nông phố.
1 Mạnh tử - “Công Tôn Sửu thượng” so sánh giữa thánh nhân với người đời như sau:
“麒麟之於走獸,鳳凰之於飛鳥,泰山之於丘垤,河海之於行潦,類也。聖人之於民,亦類也。出於其類,拔乎其萃 Kỳ lân chi ư tẩu thú, phụng hoàng chi ư phi điểu, Thái Sơn chi ư khâu điệt, hà hải chi ư hàng lạo, loại dã.
Thánh nhân chi ư dân diệc loại dã. Xuất ư kỳ loại, bạt hồ kỳ tuỵ = Kỳ lân đối với thú chạy, phượng hoàng đối với chim bay, Thái Sơn đối với gò nổng, sông biển đối với ngòi lạch, là một loại. Thánh nhân đối với người đời, cũng là một loại. Thánh nhân vượt khỏi người đời, cất mình lên trên xã hội.”
2 Hoán hồ hữu văn: Luận ngữ - “Thái Bá”:
“巍巍乎唯天爲大,唯堯則之。蕩蕩乎民無能名焉。巍巍乎其有成功也。煥乎其有文章 Nguy nguy hồ duy
thiên vi đại, duy Nghiêu tắc chi. Đãng đãng hồ dân vô năng danh yên. Nguy nguy hồ kỳ hữu thành công dã. Hoán hồ kỳ hữu văn chương = Vòi vọi thay chỉ trời là lớn, chỉ vua Nghiêu đáng sánh với trời. Lồng lộng thay dân chẳng thể gọi tên. Vòi vọi thay sự thành công của ngài. Rỡ ràng thay lễ nhạc và pháp độ của ngài.” Trong câu này của bài văn tế, chữ văn dùng chỉ văn chương.
3 Bất ngộ: Không gặp thời cơ thích hợp.
4 Mạnh Đại hiền: Mạnh Tử, Nho gia tôn xưng là Á thánh, sau Khổng Tử.
5 Nhan Á thánh: Nhan Hồi, một đại đệ tử của Khổng Tử.
6 Gia Cát: Gia Cát Khổng Minh, còn gọi là Gia Cát Lượng, một người tài giỏi thông thái, sống vào thời nhà Hán suy vi.
7 Hứa Tử: Hứa Hành, người Hà Nội đời Nguyên, nối theo học tông Trình Chu. Đời Nguyên Thế Tổ từng giữ chức Trung thư tả thừa.
8 Ngũ tựu: Năm lần đến. Mạnh tử - “Cáo Tử hạ”: “五就湯,五就桀者,伊尹也 Ngũ tựu Thang, ngũ tựu Kiệt giả, Y
Doãn dã = Năm lần đến với vua Thang, năm lần đến với vua Kiệt (tức là vua nhân đức cũng phò, vua bạo ngược cũng không bỏ), đó là ông Y Doãn vậy.” Câu văn tế có lẽ nói về việc Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra vào triều Lê, là tôi thần nhà Lê nhưng về sau ra làm quan cho nhà Mạc.
9 Tam lai: Ba lần đến. Khi Khổng Minh ở Long Trung, Lưu Bị 3 lần đích thân đến mời Khổng Minh ra giúp. Quyển
tam lai có lẽ cũng liên quan đến tích “Quyển thổ trùng lai”. Hạng Vũ bại binh kéo về Ô Giang, Đình trưởng Ô Giang khuyên nên sớm qua sông tạm xưng vương vùng Giang Đông. Hạng Vũ không nghe, không quyết tâm khôi phục cơ đồ mà tự vẫn. Đời sau hay dùng thành ngữ “Quyển thổ trùng lai” ý nói sau khi thất bại phải cố gắng khôi phục cơ đồ. 10 Lão thị: Lão Tử, có thuyết cho là Lý Nhĩ hoặc Lão Đam, nhà hiền triết thời Chu, là thủy tổ của Đạo gia.
11 Thiên dân: Người đạt đạo hiểu rò lẽ trời.
Thi hào(2) chư quái, thiên địa chi bí tàng(3); Thi tập toàn thiên, xuân thu chi cổn phủ. Lạc thiên duy thích ư ưu du; Tức cảnh mỗi hoài ư phúng dụ.
Quang phong tễ nguyệt, ái nhiên bất khả danh; Trí thủy nhân sơn(4), trác hồ hữu dư dụ.
Hà sự phi quân(5), hà lạc phi đạo, nhất kiêm chi nhậm chi thanh(6); Diệc lạc ư kỷ, diệc hoạch ư nhân, lưỡng đắc kỳ danh kỳ thọ.
Học vi thiên hạ chi sư; Niên vi thiên hạ chi phụ.
Quĩ tàng kim ngọc, hung trung Thương đỉnh Chu đôn(7); Đảm trọng cương thường, thân thượng thiên quan địa lũ(8).
Tiết di kiên bất trụy đan tâm; Chí ích tráng ninh tri bạch thủ.
Dung dữ Kiều Bành tuế nguyệt, chính thùy Chu cổn ư đông giao; Cần quyền Nghiêu Thuấn quân dân, thùy xúc Lỗ lân ư tây thú(9).
Ta thời vận chi bất tề; Trướng doanh hư chi hữu số.
Vũ hầu tinh vẫn(10), bá đồ nan vọng ư phục Lưu; Phu tử phụng phi(11), vương đạo thùy tương ư biến Lỗ.
Xanh thiên chi chí ám đạm mộ vân; Dục nhật chi công y hi triêu lộ.
1 Mạnh tử - “Công Tôn Sửu thượng”: 取諸人以爲善,是與人爲善者也。故君子莫大乎與人爲善 Thủ chư nhân dĩ vi thiện, thị dữ nhân vi thiện giả dã. Cố quân tử mạc đại hồ dữ nhân vi thiện = Noi gương thiện của người để làm điều thiện, là khuyến khích mọi người cùng làm điều thiện. Cho nên nhiệm vụ của người quân tử không gì lớn hơn khuyến khích người làm thiện.”
2 Thi: Một thứ cỏ ngày xưa hay dùng rò của nó để bói toán; Hào: Số vạch của một quẻ trong Dịch kinh, mỗi quẻ chia làm 6 hào.
3 Bí tàng: Những điều huyền bí trong vũ trụ.
4 Trí thủy nhân sơn: Trí sáng như nước chảy xuôi, lòng nhân như núi vững chãi. Luận ngữ - “Ung dã”:
“知者樂水,仁者樂山。知者動,仁者靜。知者樂,仁者壽 Trí giả nhạo thuỷ, nhân giả nhạo sơn. Trí giả động,
nhân giả tĩnh. Trí giả lạc, nhân giả thọ = Người trí thích nước, người nhân thích núi. Người trí hay động [như nước lưu thông], người nhân hay tĩnh [như núi đứng yên]. Cho nên người trí được vui, người nhân được thọ.”
5 Hà sự phi quân: Thờ ai chả là thờ vua. Cho thấy lòng trung của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trung với một ông vua cụ thể (nhà Lê hay nhà Mạc) mà là trung với dân với nước.
6 Nhất kiêm chi nhậm chi thanh: Làm quan nhưng vẫn giữ lòng thanh sạch.
7 Đỉnh: Cái đỉnh, vật truyền đời của các triều Hạ, Thương, Chu; Đôn (có lẽ đọc là đối): Một vật dùng đựng thóc lúa thời xưa. Đều dùng chỉ những vật quý báu.
8 Quan: Mũ; Lũ: Giày. Trong Sử ký - “Nhật Giả liệt truyện” có dùng thành ngữ “Thiên quan địa lũ” với ý là “khác
nhau một trời một vực”, nhưng cách hiểu này không thích hợp với bài văn tế này. Ở đây có lẽ hiểu là trách nhiệm lớn lao như mũ đội trên đầu được trời giao phó, giày mang dưới chân được đất ủy nhiệm.
9 Xuân thu tam truyện - “Ai Công thập tứ niên”: “Mùa xuân năm thứ 14, trong cuộc đi săn ở Đại Dã phía tây, gia thần của họ Thúc Tôn là Tử Sử Thương bắt được con lân. Tưởng là quái vật, đem cho viên quan coi rừng. Trọng Ni
tới coi, nói là con lân. Người ta mới giữ lại… Lân là giống thú có lòng nhân, khi đời có đấng vương giả thì lân xuất hiện, không có đấng vương giả thì lân không xuất hiện… Khi con lân bị bắt, Phu tử nói: „Đạo ta thế là cùng rồi.‟”
10 Vũ hầu: Gia Cát Lượng; Tinh vẫn: Sao rơi, chỉ bậc hiền thánh nhân qua đời.
11 Phụng phi: Theo Luận ngữ - “Vi Tử” thì phụng suy:
“楚狂接與歌而過孔子曰:„鳳兮鳳兮何德之衰!往者不可怨,來者猶可知。已而已而!今之從政者殆矣‟ Sở
cuồng Tiếp Dữ ca nhi quá Khổng Tử viết: „Phụng hề phụng hề hà đức chi suy! Vãng giả bất khả oán, lai giả do khả tri. Dĩ nhi dĩ nhi! Kim chi tòng chính giả đãi hĩ‟ = Sở cuồng Tiếp Dư ca nghêu ngao trước xe Khổng Tử rằng: „Chim phượng ơi chim phượng ơi! Đức ngươi suy bại lắm rồi [vì đời thạnh trị có ngươi xuất hiện, đời loạn lạc ngươi cũng xuất hiện]. Việc đã qua không can gián được, việc chưa tới vẫn còn kịp nhận ra. Thôi đi thôi đi! Đời này làm chính trị thật là nguy hiểm.‟”