115
Hai là, sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ thường xuyên của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương đã tạo ra những thuận lợi lớn cho thu hút và sử dụng FDI có hiệu quả đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc.
Ba là, nhận thức đúng đắn về tiềm năng lợi thế, cơ hội và thách thức thu hút và sử dụng FDI để phát triển kinh tế - xã hội của các cấp ủy Đảng, chính quyền của tỉnh đã chuyển hoá thành sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh cùng sự chủ động phối hợp tích cực của các ngành trong công tác thu hút FDI, từ đó tạo ra cơ sở vững chắc cho việc hoàn thiện môi trường đầu tư thông qua nâng cao chất lượng công tác quy hoạch; đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng; đổi mới và đa dạng hoá công tác xúc tiến đầu tư; phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy cải cách hành chính trong công tác thu hút và quản lý FDI, đặc biệt đối với các thủ tục hành chính trong cấp phép và thẩm định dự án.
Bốn là, sự ủng hộ của nhân dân và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chính sách phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và thu hút FDI để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng…
Trong những nguyên nhân kể trên, nhận thức đúng đắn và nỗ lực của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc có vai trò quan trọng nhất, đã đưa tỉnh Vĩnh Phúc trở thành địa phương năng động, sáng tạo về thu hút FDI để phát triển kinh tế xã hội so với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. Những nỗ lực đó đã chứng tỏ vai trò đặc biệt quan trọng của yếu tố chủ quan trong hoạt động thực tiễn thu hút và sử dụng FDI để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương.
3.3.2. Những tác động tiêu cực chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguyên nhân
3.3.2.1. Những tác động tiêu cực chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài Bên cạnh những tác động tích cực kể trên đối với kinh tế - xã hội Vĩnh Phúc, hoạt động của các dự án FDI cũng đang thể hiện những bất
cập nhất định:
116
Thứ nhất, sự phát triển kinh tế của tỉnh đang phụ thuộc quá lớn vào FDI. Cho đến nay tăng trưởng kinh tế của tỉnh phụ thuộc chủ yếu vào tăng trưởng của công nghiệp, trong đó FDI đang chiếm tỷ trọng quá lớn trong giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, xuất nhập khẩu cũng như đóng góp cho ngân sách. Do đó, những biến động không thuận lợi trong hoạt động của FDI dễ gây tác động tới ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh. Sự phụ thuộc này dẫn đến tốc độ tăng trưởng của tỉnh cao nhưng chưa đảm bảo sự bền vững, do FDI phụ thuộc nhiều vào chính sách vĩ mô như chính sách thuế, xuất khẩu, tiêu dùng... và chịu sự tác động nhạy cảm của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Có thể bạn quan tâm!
- Đóng Góp Của Các Doanh Nghiệp Fdi Vào Ngân Sách Tỉnh Vĩnh Phúc Theo Giá Thực Tế
- Thực Trạng Tác Động Tiêu Cực Của Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Tới Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Của Tỉnh Vĩnh Phúc.
- Tình Hình Nợ Bảo Hiểm Xã Hội Của Các Dn Fdi Trên Địa Bàn Tỉnh Vĩnh Phúc Giai Đoạn 1997-2014
- Dự Báo Nhu Cầu Về Thu Hút Đầu Tư Trực Tiếp Nước Trên Địa Bàn Tỉnh
- Tiếp Tục Hoàn Thiện Công Tác Quy Hoạch Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội, Quy Hoạch Phát Triển Các Ngành Kinh Tế, Quy Hoạch Các Khu, Cụm Công Nghiệp Đến 2020
- Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Xúc Tiến Đầu Tư, Lựa Chọn Dự Án Đầu Tư Với Mục Tiêu Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội.
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
Thứ hai, phân bố của FDI đang rất mất cân đối theo ngành và địa bàn, do đó gây mất cân đối cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các dự án FDI mới chỉ tập trung phát triển bản thân nó, chưa góp phần đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ đối với các DN trong nước trên địa bàn Tỉnh, do đó, để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ trong tỉnh cần có sự quan tâm lớn hơn của tỉnh cũng như Chính phủ và trong thời gian trước mắt, phải dựa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn nội lực chứ chưa thể hy vọng nhiều vào các nguồn ngoại lực như FDI. Bên cạnh đó, Sự hiện diện của FDI rõ ràng chưa thực sự ra nhiều tạo thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng tăng trưởng trong các ngành dịch vụ và đặc biệt là nông nghiệp.
Thứ ba, tác động của FDI tới nâng cao trình độ công nghệ sản xuất của tỉnh còn hạn chế. Bản thân các dự án FDI đang sử dụng công nghệ trình độ trung bình so với thế giới, công tác nghiên cứu và triển khai chưa thực sự được chú trọng, do đó những mong đợi từ chuyển giao công nghệ từ FDI để đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trong những năm qua về cơ bản chưa được đáp ứng trên địa bàn tỉnh.
Thứ tư, vẫn còn những DN FDI lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp luật của Việt Nam để thực hiện hành vi gian lận thương mại, chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp... tác động tiêu cực tới an ninh kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Thứ năm, FDI chưa tạo nhiều việc làm cho nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là cho khu vực nông thôn, đóng góp vào nâng cao chất lượng NNL của FDI
117
còn hạn chế. Hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội như Công đoàn rất khó khăn. Một số DN còn chưa chú trọng tới công tác đóng BHXH và BHYT. Trong các DN FDI vẫn còn hiện tượng tranh chấp lao động, đình công, thu nhập bình quân của người lao động chưa cao, một số DN chưa thực hiện tốt chế độ đãi ngộ đối với người lao động.
Thứ sáu, vẫn còn các DN FDI có tác động xấu đến môi trường làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo hướng bền vững. Mặc dù các DN FDI thường có trình độ công nghệ cao hơn so với khu vực kinh tế trong nước, tuy nhiên do sự hình thành của các DN FDI chịu tác động đáng kể của xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các nước phát triển theo hướng loại bỏ dần những ngành truyền thống với những công nghệ có ảnh hưởng không tốt tới môi trường, cho nên hoạt động của các DN FDI trong công nghiệp ở Vĩnh Phúc nói riêng và ở nước ta nói chung vẫn có tác động không nhỏ tới môi trường sinh thái. Thực tế cho thấy, các DN FDI trong công nghiệp Vĩnh Phúc thường không tập trung vào các dự án xử lý môi trường.
Tóm lại, bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động của các DN FDI trong ngành công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc cũng đã tạo ra những hệ quả không mong muốn, thách thức đối với sự phát triển bền vững.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua và gây cản trở đối với việc hạn chế những tác động đó. Những nguyên nhân đó bao gồm:
Thứ nhất, từ phía bản thân các chủ thể FDI. Xuất phát từ bản chất và động cơ lợi nhuận, các nhà đầu tư FDI luôn hướng vào lựa chọn các hoạt động kinh doanh mang lại tỷ suất lợi nhuận cao kể cả khi hoạt động đó không hoàn toàn phù hợp với những mục tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của tỉnh. Bên cạnh đó, khi quản lý về FDI của chính quyền sở tại yếu kém, hệ thống pháp luật lỏng lẻo, không nghiêm, các nhà đầu tư FDI thường xuyên tìm cách lách
118
luật, cố tình làm trái luật… từ đó gây tác động xấu đến phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn đầu tư.
Thứ hai, có không ít nguyên nhân xuất phát từ tầm vĩ mô như những bất cập trong cơ chế, chính sách của Nhà nước như sự thiếu hụt về chiến lược và định hướng về thu hút, sử dụng và quản lý FDI mang tính nguyên tắc và ở tầm dài hạn; Hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và không rõ ràng; chưa có các chế tài đủ mạnh để xử lý các dự án chậm tiến độ, nhiều lần giãn tiến độ hoặc tự ý dừng, chấm dứt dự án đầu tư...; Chính sách ưu đãi và định hướng ưu đãi DN FDI thiếu ổn định, thiếu nhất quán giữa các giai đoạn phát triển; Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư không thống nhất, nằm rải rác ở các văn bản khác nhau (ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, tiền thuê đất...) gây khó khăn trong việc xác định ưu đãi cho các dự án; Cơ chế, chính sách về đất đai có những thay đổi làm ảnh hưởng đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, nhất là khi thực hiện Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về Quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư trên chưa thực tế và theo quy định tồn tại cơ chế hai giá trong BT GPMB; Việc phân cấp, ủy quyền cho các địa phương, cụ thể là Ban quản lý KCN trong một số lĩnh vực còn chưa được thực hiện đầy đủ, nhất quán do có sự không thống nhất với các quy định của pháp luật chuyên ngành, chưa được các bộ, ngành hướng dẫn cụ thể (như hoạt động thanh tra của Ban quản lý KCN)... Những nguyên nhân này đã và đang ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu tư, gây cản trở cho việc thu hút, sử dụng và phát huy tác động tích cực, giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp tỉnh ở nước ta nói chung và ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Thứ ba, phân tích thực tiễn hoạt động của FDI trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy, việc phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế xã hội những năm qua chưa được thực hiện tốt như mong muốn, phần nhiều do các nguyên nhân xuất phát từ những điều kiện cụ thể của Tỉnh. Những nguyên nhân đó bao gồm:
119
Một là, Vĩnh Phúc là tỉnh có điểm xuất phát thấp, để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cần tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư trong ngoài tỉnh và đặc biệt là FDI. Do đó, trong thời kỳ đầu Tỉnh đã cố gắng tăng cường các biện pháp thu hút FDI, vấn đề chọn lọc các dự án có chất lượng chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù công tác quản lý FDI có nhiều đổi mới, song cho đến nay, đối với hầu hết các dự án FDI đã thu hút và hoạt động trên địa bàn tỉnh, công tác đánh giá hiệu quả chưa được thực hiện thường xuyên và định kỳ, không ít vướng mắc từ phía các nhà đầu tư FDI chậm được nghiên cứu, giải quyết, gây cản trở cho hoạt động đầu tư và phát huy tác động tích cực.
Hai là, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, song cho đến nay công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh vẫn còn không ít bất cập, đặc biệt là chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch ngành và quy hoạch vùng, vừa gây lãng phí nguồn lực của địa phương vừa chưa trở thành định hướng rõ ràng ổn định cho thu hút, sử dụng hiệu quả FDI, làm giảm tác động tích cực của FDI.
Ba là, trong những năm qua Vĩnh Phúc đã có nhiều cố gắng trong nâng cấp, xây dựng mới và hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật trên địa bàn tỉnh nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư, trong đó có FDI, tuy nhiên chất lượng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng tại các KCN đến nay vẫn chưa đồng bộ, dịch vụ logistcs chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của các nhà đầu tư. Các KCN trên địa bàn tỉnh chậm hình thành khu nhà ở công nhân cũng như hệ thống nhà xưởng có sẵn cho thuê, để thu hút các DN nhỏ và vừa, các DN hỗ trợ vào đầu tư tại tỉnh.
Bốn là, công tác đào tạo nghề và hỗ trợ, giúp đỡ người lao động làm việc trong các DN FDI còn hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo khá cao nhưng nhìn chung chất lượng NNL chưa đáp ứng yêu cầu của DN, vẫn còn thiếu hụt về NNL trong lĩnh vực công nghệ cao. Người lao động còn thiếu tính chuyên nghiệp, tác phong làm việc, tính kỷ luật, ý thức trách nhiệm phần nào chưa đáp ứng được các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
120
Năm là, những bất cập về đội ngũ cán bộ các cấp chính quyền và đoàn thể, đặc biệt về năng lực nhận thức, bản lĩnh điều hành, trách nhiệm đối với công việc đã và đang làm giảm hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với FDI. Trong giai đoạn đầu thu hút đầu tư, còn ôm đồm về mục tiêu thu hút sử dụng FDI, chưa chú trọng nhiều đến chất lượng của các dự án đầu tư. Công tác xúc tiến đầu tư tuy đã có đổi mới về nội dung và phương thức vận động, tuy nhiên hiệu quả chưa cao. Nhiều điều kiện cần thiết có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và hiệu lực thu hút FDI chưa được triển khai đồng bộ, công tác BTGPMB, tái định cư vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc. Tiến độ thực hiện một số dự án hạ tầng kỹ thuật KCN chậm kéo theo sự chậm trễ và mất cơ hội để thu hút DN vệ tinh. Chất lượng NNL chưa đáp ứng được yêu cầu của các dự án đầu tư. Năng lực và hiệu lực thanh tra, giám sát chưa cao và thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các sở, ban, ngành.
Ngoài ra, trình độ phát triển kinh tế và trình độ dân trí chưa cao gây ra nhiều bức xúc từ phía bộ phận dân cư trong diện bị thu hồi đất và đội ngũ người lao động trong các DN FDI.
Do các nguyên nhân kể trên, một số chỉ số thành phần của chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh Vĩnh Phúc đã có xu hướng giảm sút, do đó chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh trong bảng xếp hạng các địa phương đã tụt hạng: từ xếp thứ 3 năm 2008, thứ 6 năm 2009, xuống xếp thứ 15 năm 2010, thứ 17 năm 2011, gây ảnh hưởng tới môi trường đầu tư của tỉnh. Vì vậy, để khắc phục những tác động tiêu cực của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó phải phân biệt những giải pháp trước mắt có thể nhanh chóng phát huy hiệu quả của FDI và các giải pháp lâu dài tạo cơ sở cho FDI đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng ổn định, vững chắc trong tương lai.
121
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CÁC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC
4.1. DỰ BÁO VỀ BỐI CẢNH VÀ NHU CẦU THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC TRONG GIAI ĐOẠN 2015-2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
4.1.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước, trong tỉnh tác động tới thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn đến năm 2020
4.1.1.1. Tác động của bối cảnh quốc tế
Trong những thập kỷ đầu tiên của Thế kỷ XXI, bối cảnh quốc tế với các xu thế kinh tế lớn như toàn cầu hóa, khu vực hóa, cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đang tạo ra nhiều thuận lợi, nhiều cơ hội đầu tư phát triển, song cũng tạo ra sự biến đổi nhanh chóng và rủi ro hơn trong phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu cũng như của mỗi quốc gia, địa phương. Sự kiện Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, thực hiện và tiếp tục đàm phán nhiều cam kết quốc tế khác đã và đang tạo điều kiện cho Việt Nam và các địa phương, trong đó có tỉnh Vĩnh Phúc tiếp cận nhanh hơn, dễ dàng hơn với thị trường thế giới và khu vực, đồng thời cũng chịu sự tác động mạnh mẽ hơn từ những bất ổn của thị trường thế giới như
khủng hoảng kinh tế thế giới.
Rõ ràng, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tạo điều kiện cho các dòng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù chịu tác động không nhỏ của khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Mỹ năm 2008, nhưng trong giai đoạn 2009 -2012 khối lượng FDI toàn cầu vẫn tăng 21,28% từ 1.114 tỷ
122
USD lên 1.351 tỷ USD, trong đó lượng FDI tới các nước đang phát triển tăng khá nhanh từ 478 tỷ USD lên 703 tỷ USD (tỷ trọng trong tổng khối lượng FDI toàn cầu tăng từ 42,9% lên 52%), đặc biệt là tại các nền kinh tế năng động nhất thế giới - khu vực Đông và Đông Nam Á tăng từ 233 tỷ USD lên 326 tỷ USD (tỷ trọng trong tổng khối lượng FDI toàn cầu tăng từ 20,9% lên 24,1%)[109, tr.31; 104, tr13].
Như vậy, trong những năm gần đây, lượng vốn FDI trên thế giới đầu tư vào các nước đang phát triển, đặc biệt là vùng Đông và Đông Nam Á có xu hướng tăng nhanh. Tình hình đó không những tạo cơ hội cho Việt Nam nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng tăng cường thu hút FDI cho phát triển kinh tế - xã hội, mà còn tạo ra sức ép cạnh tranh và thách thức to lớn đối với cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay so với các nước xung quanh.
Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng rộng mở, làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trở lên mạnh mẽ. Nếu như trong năm 2006, lượng vốn FDI đăng ký là 221 triệu USD, thì sang năm 2007 đã đạt mức 977,9 triệu USD, kỷ lục là năm 2010 -
3.503 triệu USD [114].
Bên cạnh đó, những bất ổn trong phát triển kinh tế thế giới đã và đang tạo ra những thách thức cho thu hút và sử dụng FDI của Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Sự suy thoái, sự phá sản của các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đang ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các quốc gia. Các tập đoàn, các DN, do phá sản hoặc suy thoái đã buộc phải cơ cấu lại, cắt giảm đầu tư, cắt giảm nhân lực… làm thu hẹp thị trường, các cơ hội đầu tư phát triển cũng như làm tăng lực lượng lao động thất nghiệp…
Những bất ổn kinh tế thế giới làm chậm tiến độ giải ngân của các dự án FDI cũng như làm giảm nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài…Trong những năm 2011, 2012 lượng FDI thu hút được của Việt Nam có xu hướng giảm. Năm 2012 Việt Nam thu hút được 2.532 triệu USD FDI và năm 2012 là 1.546,7 triệu USD[114].