Tình Hình Nợ Bảo Hiểm Xã Hội Của Các Dn Fdi Trên Địa Bàn Tỉnh Vĩnh Phúc Giai Đoạn 1997-2014

107

chế độ phụ cấp ăn ca thấp (từ 10.000 đồng đến 25.000 đồng/suất), chất lượng

bữa ăn chưa thực sự được đảm bảo do không được giám sát thường xuyên.

Thứ hai, Mặc dù các FDI đã có cố gắng nhất định chấp hành các quy định về BHXH, BHYT cho người lao động, song do mục tiêu tiết kiệm chi phí đã làm cho một số DN FDI tìm cách cố tình trốn tránh đóng BHXH, hoặc để chấm dứt hợp đồng lao động khi cần thiết. Tình hình nợ BHXH của các DN FDI được phản ánh qua các số liệu của bảng 3.8 dưới đây:


Năm

Số lượng

DN

Nợ đọng

FDI

tổng toàn tỉnh

tỷ lệ /tổng

DN

VNĐ

VNĐ

%

1997

5

132,297,523

1,125,467,325

11.75%

1998

9

333,022,650

1,426,476,672

23.35%

1999

10

47,490,381

1,825,656,474

2.60%

2000

9

-133,217,826

2,514,557,457

-

2001

8

5,320,459

2,546,701,445

0.21%

2002

13

163,748,779

3,215,462,131

5.09%

2003

19

1,456,366,909

4,289,454,444

33.95%

2004

27

1,372,406,996

8,214,554,221

16.71%

2005

40

3,563,053,558

10,210,422,144

34.90%

2006

59

9,747,248,500

22,114,462,454

44.08%

2007

68

14,660,157,830

24,031,456,472

61.00%

2008

63

17,391,415,747

36,253,347,686

47.97%

2009

70

15,304,299,229

26,253,347,686

58.29%

2010

84

7,440,433,834

27,126,434,789

27.43%

2011

93

4,070,644,294

28,065,646,026

14.50%

2012

92

5,451,455,766

33,626,000,000

16.21%

2013

100

1,002,922,582

50,328,659,202

1.99%

2014

107

12,570,789,079

62,335,000,000

20.17%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc - 15

Bảng 3.8: Tình hình nợ bảo hiểm xã hội của các DN FDI trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997-2014


Nguồn: [28]

Tính đến hết quý IV/2011, trên địa bàn tỉnh có 31 DN FDI (chiếm 34,8 số DN FDI đang hoạt động) nợ BHXH. Tổng số tiền nợ BHXH của các DN khối FDI là 4.440 triệu đồng, trong đó có 5/14 DN Nhật Bản nợ 449 triệu

108

đồng; 18/42 DN Hàn Quốc nợ 2.545 triệu đồng; 5/24 DN Đài Loan nợ 381

triệu đồng; 2/6 DN Trung Quốc nợ 80 triệu đồng [27].

Nếu tính riêng 6 tháng đầu năm 2014, thì tổng số nợ của DN FDI là trên 12 tỷ đồng, bằng 20,17% số nợ của toàn tỉnh. Nợ đọng tập trung chủ yếu ở các DN sản xuất, kinh doanh bao bì. Nổi cộm là có 3 DN: Công ty TNHH TSARI; Công ty TNHH GREENNET VN; Công ty TNHH IK - HAN Việt

Nam. Công ty TNHH GREENNET VN nợ 7 tháng với số tiền là 417,8 triệu đồng. Tại Công ty TNHH IK - HAN Việt Nam, do hoạt động sản xuất kinh doanh thua lỗ nên chủ sử dụng lao động bỏ trốn từ năm 2009, số tiền nợ là 2,5 tỷ đồng [28].

Thứ ba, FDI chưa tạo nhiều việc làm cho khu vực nông thôn và tác động đến nâng cao chất lượng NNL còn hạn chế.

Mặc dù số lượng việc làm được tạo ra trong các doanh nghiệp công nghiệp có vốn FDI ở Vĩnh Phúc thời gian qua tăng lên không ngừng, nhưng tỷ trọng thu hút sức lao động của các DN này trong tổng số NNL của tỉnh còn ở mức rất thấp. Tỷ trọng lao động trong các DN công nghiệp có vốn FDI trong tổng số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động của Vĩnh Phúc năm 2000 là 0,33%; năm 2001 - 0,45%, 2002 - 0,99%; 2003 - 1,25%; 2004 -

1,63%; 2005 - 2,38%; 2009 - 4,88%; 2010 - 5,03%; 2011 - 6,12%

[30],[31],[32],[33],[34],[35],[57].

Thứ tư, tác động tiêu cực của FDI đến môi trường. Mặc dù các DN FDI thường có trình độ công nghệ cao hơn so với khu vực kinh tế trong nước, tuy nhiên do sự hình thành của các DN FDI chịu tác động đáng kể của xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các nước phát triển theo hướng loại bỏ dần những ngành truyền thống với những công nghệ có ảnh hưởng không tốt tới môi trường, cho nên hoạt động của các DN FDI trong công nghiệp ở Vĩnh Phúc nói riêng và ở nước ta nói chung vẫn có tác động không nhỏ tới môi trường sinh thái. Thực tế cho thấy, các DN FDI trong công nghiệp Vĩnh Phúc thường không tập trung vào các dự án xử lý môi trường mà vấn đề đó được chuyển thành trách nhiệm của Ban quản lý các KCN, trong khi đó việc thu hút

109

vốn đầu tư cho các dự án xử lý chất thải bảo vệ môi trường đang rất khó khăn.

Cho đến nay, hầu hết các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có quy hoạch xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung và đã lập báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của các KCN, tuy nhiên việc thưc hiện chưa đầy đủ theo yêu cầu. Do chưa có bãi chôn lấp, xử lý chất thải rắn công nghiệp công ty liên doanh lớn như Công ty ôtô Toyota thời gian dài phải lưu giữ trong kho 250 tấn chất thải rắn công nghiệp và Công ty Honda Việt Nam lưu giữ 1000 tấn chất thải rắn công nghiệp mới được xử lý. Mặt khác, hiện nay, do thiếu bãi tập kết, chôn lấp và xử lý chất thải trong các KCN nên có tình trạng các cơ sở sản xuất công nghiệp thuê các tổ chức, cá nhân không có chức năng thu gom, vận chuyển chất thải, dẫn đến việc đổ chất thải không đúng nơi quy định, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khoẻ nhân dân.

Bên cạnh các dự án do các tập đoàn kinh tế lớn của Nhật Bản chấp hành tương đối nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường như Công ty Toyota Việt Nam, Công ty Honda Việt Nam, Công ty TNHH Takanichi Việt Nam, Công ty TNHH Sản xuất phanh NISSIN Việt Nam... vẫn còn nhiều các doanh nghiệp không chấp hành nghiêm chỉnh quy định của Luật Bảo vệ môi trường như không tiến hành lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, không thực hiện đăng ký quản lý chất thải nguy hại, không thực hiện giám sát môi trường định kỳ...

Trong số các DN FDI của Hàn Quốc, còn nhiều DN chưa thực hiện tốt các quy định về bảo vệ môi trường. Nhiều DN bị xử phạt vi phạm hoặc buộc phải di dời như Công ty TNHH Seul Print Vina, Công ty Kumnam Print, Công ty TNHH Bangsun... Kết quả kiểm tra định kỳ hàng năm cho thấy các DN lớn có bố trí tổ chuyên trách hoặc cán bộ quản lý môi trường, còn lại hầu hết các đơn vị chỉ bố trí nhân viên kiêm nhiệm, không có chuyên môn nên hầu hết vi phạm các quy định về quản lý CTNH như không kê khai đầy đủ thành phần, lượng chất thải phát sinh, chậm chuyển giao CTNH, chậm nộp báo định kỳ về tình hình phát sinh CTNH, không chuyển chứng từ CTNH cho cơ quan

110

quản lý nhà nước về môi trường, bố trí nơi lưu giữ tạm thời chưa đảm bảo đúng quy định... Mặt khác, nhiều DN hoạt động trong lĩnh vực, sản xuất linh kiện điện tử gia công may mặc sử dụng nhiều lao động nên việc quản lý rất phức tạp, có những tác động tiêu cực đến môi trường xã hội khu vực xung quanh như Công ty TNHH Vina Korea, Công ty TNHH Shinwon Ebenezer, Công ty TNHH Daewoo Apparel Viet Nam, Công ty TNHH Daewoo STC….

Các DN FDI của Đài Loan, Trung Quốc chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực sản xuất cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ cho các ngành sản xuất ô tô, xe máy, chế tạo máy móc, thiết bị công nghiệp, vật liệu xây dựng…với quy mô nhỏ và vừa, có lượng chất thải hàng năm vào khoảng 6,4 nghìn tấn CTNH, 8,3 nghìn tấn chất thải rắn công nghiệp thông thường và khoảng 350 nghìn m3 nước thải. So với các DN của Nhật Bản và Hàn Quốc, các DN của Đài Loan, Trung Quốc có công nghệ, thiết bị lạc hậu, sử dụng nhiều nguyên liệu, năng lượng và định mức phát thải lớn. Trong khi đó trình độ quản lý còn hạn chế, đặc biệt

là ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường còn yếu, thậm chí nhiều đơn vị chây ỳ hoặc thực hiện mang tính chất đối phó, không thực hiện đầy đủ các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm, thải chất thải gây ô nhiễm môi trường… gây bức xúc đối với người dân sống trong khu vực xung quanh, điển hình như Công ty TNHH dệt Hiểu Huy (tiền thân là công ty dệt len Lantian Việt Nam tại cụm công nghiệp Lai Sơn - Vĩnh Yên) đã bị buộc phải tạm dừng hoạt động của xưởng nhuộm để đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải mới; Công ty Hữu hạn công nghiệp Strongway để rò rỉ dầu thải gây ô nhiễm môi trường đất trong KCN Khai Quang bị xử phạt 254 triệu đồng và buộc phải cải tạo lại nền đất bị nhiễm dầu; công ty VPIC1 xả nước thải vượt quy chuẩn 13 lần; công ty TNHH Lâm Viễn chuyển giao CTNH không đúng quy định…. Kết quả thống kê cho thấy, từ năm 2011 đến hết 2013, các cơ quan quản lý môi trường đã kiểm tra 51 đơn vị, trong đó xử phạt vi phạm 25 đơn vị với số tiền khoảng gần 2,3 tỷ đồng. Thống kê cũng cho thấy có đến 84% đơn vị được kiểm tra vi phạm các quy định về thủ tục, hồ sơ môi trường, 67% vi phạm về quản lý CTNH, 32% đơn vị xả nước thải vượt quy chuẩn và trốn nộp phí xả nước thải,

111

74% đơn vị không thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố, rủi ro về môi trường…[29]

Mặc dù chưa có số liệu thống kê số DN FDI trên địa bàn tỉnh áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên có thể khẳng định hiện nay chưa có cơ sở pháp lý để bắt buộc hoặc khuyến khích các DN này tham gia áp dụng sản xuất sạch hơn trong quá trình hoạt động. Bởi vậy trên địa bàn tỉnh đã và đang diễn ra một thực tế là bên cạnh một số DN bỏ ra hàng tỷ đồng để đầu tư cải tiến quy trình công nghệ, áp dụng các biện pháp xử lý chất thải đạt quy chuẩn thì một số DN khác lại xả chất thải gây ô nhiễm môi trường và chỉ bị phạt với số tiền phạt quá nhỏ. Ví dụ, chỉ tính riêng năm 2011, trong số 35 doanh nghiệp FDI được Sở Tài nguyên và Môi trường thanh, kiểm tra đã có 16 đơn vị có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và bị xử phạt với tổng số tiền là 528,75 triệu đồng [59].

Hầu hết các DN FDI khi đầu tư vào Vĩnh Phúc đều có xu hướng lựa chọn các địa điểm có sẵn hạ tầng như các KCN, CCN hoặc những nơi thu hồi đất thuận lợi... Theo số liệu thống kê, hiện nay tại các KCN, CCN có 92 dự án FDI, ngoài KCN, CCN có 28 dự án. Tuy nhiên thực trạng phát triển hạ tầng khu vực này trong những năm qua cho thấy hầu hết các KCN, CCN đều trong tình trạng vừa kêu gọi đầu tư vừa hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nên công tác bảo vệ môi trường gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng nước thải từ các cơ sở sản xuất mới chỉ xử lý sơ bộ hoặc không qua xử lý xả thải trực tiếp ra các sông suối, ao, hồ... của khu vực vẫn còn khá phổ biến. Việc xử lý nước thải ở các cơ sở sản xuất phụ thuộc vào năng lực tài chính cũng như ý thức trách nhiệm của chủ đầu tư. Việc kiểm soát nước thải công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, do mới chỉ có một số khu, CCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung và nguồn nhân lực lại mỏng... Điều này đã làm cho những thuỷ vực trực tiếp tiếp nhận đang phải chịu tác động rất lớn của nước thải công nghiệp.

Theo kết quả quan trắc hàng năm cho thấy, chất lượng môi trường nước mặt ở các lưu vực lớn như sông Phan, sông Cà Lồ, Đầm Vạc...đang bị suy giảm, thậm chí có những nơi ô nhiễm cao (COD, BOD5, NH3, Coliform và một

112

số kim loại nặng...), đặc biệt là những đoạn hoặc những lưu vực là nơi tiếp nhận nguồn nước thải công nghiệp. Điển hình như sông Bến Tre đoạn chảy qua phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, ngoài việc phải tiếp nhận các nguồn thải sinh hoạt, chăn nuôi trên địa bàn còn phải tiếp nhận một lượng lớn nước thải của Công ty dệt Hiểu Huy. Với đặc tính nước thải có hàm lượng chất ô nhiễm cao, độ màu lớn, trong những năm trước đây, cơ sở này liên tục có những hành vi vi phạm trong việc xả nước thải không qua xử lý vào sông Bến Tre. Mặc dù đã được các cơ quan chức năng như Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng cảnh sát môi trường, Công an tỉnh...kiểm tra, yêu cầu khắc phục và DN đã thực hiện các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường, song đã để lại tác động không nhỏ đối với chất lượng môi trường nước sông và rất lâu mới có thể khắc phục triệt để được. Kết quan trắc môi trường năm 2011 cho thấy, 100% mẫu nước sông ở các vị trí khác nhau đều có chỉ tiêu tổng dầu mỡ vượt quy chuẩn từ 1,3-1,8 lần; các mẫu lấy vào mùa mưa đều có chỉ tiêu NH4+ vượt quy chuẩn từ 1,08-3,12 lần, trong đó điểm quan trắc tại phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên có mức độ ô nhiễm vượt quy chuẩn cho phép 3,12 lần.

Sự phát triển gia tăng thu hút và sử dụng FDI cũng đang gây sức ép đối với công tác xử lý chất thải công nghiệp. Việc tập trung thu hút các DN FDI vào đầu tư tại tỉnh nhưng chưa chú trọng đến hạ tầng xử lý chất thải đang là vấn đề gây sức ép đối công tác quản lý môi trường hiện nay. Theo số liệu thống kê của các cơ sở, tổng lượng CTNH của các DN FDI phát sinh trung bình khoảng 11,4 nghìn tấn/năm. Trong đó mới chỉ có 1 số DN như Toyota Việt Nam, Honda Việt Nam...tự đầu tư công trình xử lý CTNH, còn lại hầu hết các cơ sở phải thuê các đơn vị khác trong và ngoài địa bàn tỉnh để vận chuyển xử lý. Đến năm 2011 có 15 chủ hành nghề quản lý CTNH hoạt động trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó có 04 chủ hành nghề quản lý CTNH do UBND tỉnh Vĩnh Phúc cấp phép và 11 chủ hành nghề quản lý CTNH do Tổng cục Môi trường cấp phép. Nhìn chung, việc chuyển giao trách nhiệm xử lý CTNH của chủ nguồn thải cho chủ hành nghề vận chuyển, xử lý đều được thực hiện thông qua hợp đồng, khi bàn giao CTNH đều có chứng từ CTNH.

113

Thống kê năm 2011 cho thấy tổng khối lượng CTNH do các chủ hành nghề vận chuyển, xử lý CTNH được UBND tỉnh Vĩnh Phúc cấp phép đã thực hiện khoảng 3,73 nghìn tấn, chiếm khoảng 32,7%. Lượng CTNH còn lại do các chủ hành nghề quản lý CTNH do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép hành nghề thực hiện

Kết quả thanh kiểm tra các năm gần đây cho thấy có nhiều DN FDI chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý CTNH, đặc biệt là việc thực hiện trách nhiệm của chủ nguồn thải CTNH như không đăng ký điều chỉnh sổ chủ nguồn thải CTNH, lưu giữ CTNH quá thời hạn cho phép nhưng không có báo cáo cơ quan quản lý nhà nước, không bố trí nơi lưu giữ hoặc có bố trí nơi lưu giữ nhưng chưa đảm bảo theo đúng quy định dẫn đến rò rỉ CTNH gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Ví dụ như Công ty Hữu hạn công nghiệp Strongway Vĩnh Phúc để rò rỉ dầu thải ra môi trường; Công ty TNHH Kosei Multipack Việt Nam không phân loại CTNH, để lẫn CTNH với chất thải khác; Công ty GHS chuyển giao CTNH cho đơn vị không có chức năng... [60]

Những tồn tại nêu trên là do một số DN FDI chưa thực sự chú trọng tới công tác bảo vệ môi trường, nhiều DN chưa có nhân viên phụ trách chuyên trách về môi trường hoặc chưa tìm hiểu đầy đủ các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam. Bên cạnh đó cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xử lý chất thải công nghiệp nói riêng và CTNH chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.

3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.3.1. Những kết quả tích cực và nguyên nhân

3.3.1.1. Những kết quả tích cực

Từ những phân tích ở phân trên có thể khẳng định rằng, trong những năm qua kể từ sau tái lập tỉnh năm 1997, Vĩnh Phúc đã thu hút được lượng FDI ngày càng tăng. Hoạt động của FDI đã có nhiều tác động tích cực tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Những tác động tích cực chủ yếu bao gồm:

114

Thứ nhất, FDI trở thành nguồn vốn bổ sung vô cùng quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động của các dự án FDI đã và đang đóng vai trò là yếu tố chủ yếu quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh theo hướng CNH, HĐH. Hoạt động của các DN FDI đã tác động tích cực tới nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất, chất lượng nguồn lao động và năng suất lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, học hỏi phương pháp quản lý tiên tiến, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh về kinh tế của tỉnh. FDI đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các khu, CCN, thúc đẩy sự phát triển nhanh của hệ thống kế cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

Thứ hai, FDI đã trở thành yếu tố đảm bảo cho tăng trưởng nhanh của các hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy giao lưu kinh tế quốc tế, đồng thời đóng góp lớn cho nguồn thu ngân sách, tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

Thứ ba, FDI đã góp phần quan trọng vào giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động và bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

3.3.1.2. Nguyên nhân của những tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Sự hiện diện của FDI tại Vĩnh Phúc đã có tác động rất tích cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu của những tác động tích cực kể trên bao gồm:

Một là, hệ thống các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách về đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được hoàn thiện. Việc ban hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hải quan…đã góp phần tạo ra khuôn khổ pháp lý ngày càng ổn định rõ ràng hơn cho hoạt động đầu tư, đảm bảo tính minh bạch, bình đẳng cho các nhà đầu tư, thúc đẩy thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI trên phạm vi cả nước nói chung và ở Vĩnh Phúc nói riêng.

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 01/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí