Sự Kết Hợp Trung Hiếu (Hiếu Trung)


kiến và thường “nạn nhân” là các cô gái (64 bài, Phụ lục, tr. 104 – 109). Người trong cuộc tâm sự:

Mẹ em tham gạo tham gà Bắt em để bán cho nhà cao sang

Chồng em thì thấp một gang

Vắt mũi chưa sạch ra đàng đánh nhau.

[74, tr. 1461]

Lời bộc bạch của cô gái đã phản ánh tình hình tiếp nhận tiêu cực của người dân khi tiếp xúc với triết lý hiếu kính Nho giáo. Một số bậc sinh thành đã lạm dụng quyền quyết định hôn sự của con cái, buộc con mình phải ngoan ngoãn thuận tùng theo cách áp đặt: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Thực tế, cha mẹ có thể “đặt con” vào “nhầm chỗ” là rất phổ biến. Các bậc sinh thành đó không biết (thật ra họ cũng không quan tâm) nhiều khi họ đã đẩy con mình vào bi kịch:

Bác mẹ em tham vội tham vàng Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con Trước thời thẹn với nước non

Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày...

[74, tr. 226]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Người con, nhiều lúc không chỉ sống trong cảnh cơ cực về thể xác mà còn phải chịu đựng nỗi đau về tinh thần, sự dằn vặt, nhớ thương người mình yêu nếu đã trót “thề nguyền” với một ai đó.

Khi đến tuổi yêu đương, sự rạo rực của con tim và sự thôi thúc của tình cảm đẩy người con đến những ham muốn vượt qua sự ràng buộc về mặt lý trí của Đạo lý. Tuy nhiên, vì thực tế Đạo lý ấy đã trở thành chuẩn mực hằng thường mang tính truyền thống, ý thức về trách nhiệm với những người xung quanh nên đã kềm giữ người con trong trạng thái dao động giữa lý trí và tình cảm, tạo một sự giằng co giữa Hiếu và Tình. Chữ Hiếu chiếm lấy tâm trí người con và chữ Tình cũng là mối vấn vương khó gỡ bỏ, người con thổ lộ:

Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ, ca dao – Dân ca người Việt - 17

Bây giờ buôn bán theo ai


Nặng đầu chữ hiếu, nhẹ vai chữ tình Hiếu tình buồn bực trong mình

Sợ thầy hãi mẹ làm thinh vui cười.

[74, tr. 788]

Tâm trạng của người con trong bài, cho thấy sự xuất hiện của Tình đã làm lung lay vị trí độc tôn của Hiếu, đặt sự hiếu kính của người con trước một thử thách. Nhưng chữ Hiếu với sức mạnh lý trí kết hợp với “tình thâm” như người con đã từng nói: “Phụ mẫu tình thâm, phu thê ngãi trọng” vẫn có đủ khả năng để khống chế hành vi của người con “Sợ thầy hãi mẹ làm thinh vui cười”. Mối quan hệ Hiếu – Tình nhiều lần dẫn đến bi kịch khó giải quyết, đẩy người con rơi vào tình thế lúng túng. Nhưng vì chữ Hiếu đã đặt một cơ sở tình cảm và trách nhiệm vì người trong quan niệm sống của các chàng trai, cô gái, tạo nên sức mạnh lý trí giúp người con quên chữ Tình để giữ trọn đạo Hiếu. Người con trai kiên quyết bảo rằng:

Chỉ Kim tương cha mẹ không thương Dứt đạo cang thường, anh cam bụng chịu

Thôi thôi buông áo anh ra về, em bận bịu làm chi.

[74, tr. 490]

Người con trai chấp nhận rời bỏ tình riêng để giữ tròn đạo Hiếu vì anh tin chắc đó là một hành động đúng theo những gì anh được dạy bảo và những quy chuẩn đạo đức do xã hội Nho phong lập ra. Quan trọng hơn hết, trong người con trai ý thức vì người khác đã mách bảo anh không nên xem trọng những ham muốn cá nhân. Nếu vì tình riêng mà xao lãng phận làm con thì không chắc anh đã cảm thấy hạnh phúc. Các anh đã từng kiên quyết bảo rằng:

Anh không bôn theo đường vợ con Mà nhớ đến hai chữ thất gia

Một chữ kính mẹ, một chữ thờ cha

Dầu mà trăng xế, bóng qua anh cũng đành.

[75, tr. 2273]

Còn các cô gái thì luôn tự nhắc nhở:


Công sinh dục bằng công tạo hóa Có cha mẹ, sau mới có chồng Em nhớ khi dìu dắt ẵm bồng

Nay em lao khổ não nùng, không than.

[74, tr. 716]

Lời cô gái đã chứng tỏ cán cân lệch hẳn về Hiếu khi có sự đối trọng giữa Hiếu và Tình. Cô gái phân định rò ràng sự trọng khinh giữa hai mối quan hệ, phụ (mẫu) – tử, phu – phụ. Cô xem trọng mối quan hệ phụ (mẫu) – tử hơn mối quan hệ phu – phụ vì “Cha sinh mẹ dưỡng sánh tày bể đông”. Đây là “đạo làm người” không chỉ giới hạn trong ý nghĩa của chữ Hiếu mà còn là hành động cụ thể của Nghĩa, nghĩa tri ân. Hiếu, Nghĩa lồng trong cùng một hành vi càng cho thấy tính nhân văn cao cả của hành xử với mục đích hướng đến là tri thâm ân cha mẹ của người con. Theo chúng tôi, điều này giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao người con luôn tự giác hy sinh nhu cầu cá nhân, tình cảm riêng tư để giữ tròn đạo Hiếu. Thúy Kiều sau khi cân nhắc Hiếu – Tình: “Duyên hội ngộ, đức cù lao/ Bên Tình bên Hiếu, bên nào nặng hơn?”, đã quyết định: “Để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành” [42, tr. 52]. Dù quyết định này làm Kiều đau xót và mang đến cho nàng một cuộc sống bi cực, nhục nhã nhưng nàng không một lời hối tiếc hay oán thán. Về phía Kim Trọng, chàng không những không một lời hờn trách Thúy Kiều về quyết định phụ tình chàng, mà ngược lại còn tỏ ý trân quý nàng hơn. Chàng triết lý về chữ Trinh khi tái hợp:

Xưa nay trong đạo đàn bà,

Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường: Có khi biến, có khi thường,

Có quyền nào phải một đường chấp kinh?

Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay?

[42, tr. 195]


Đối với Kim Trọng, chữ Trinh mang ý nghĩa tiết hạnh không thể sánh với chữ Trinh trong “đạo làm con”. Nhân phẩm của Thuý Kiều vẫn sáng ngời vì biết hy sinh cái riêng cho cái chung. Nhà nho Nguyễn Du cũng tỏ rò sự đồng tình với quyết định của Thúy Kiều qua việc ông không hề mượn lời của bất cứ nhân vật nào để tỏ ý trách cứ, phê phán lối ứng xử phụ tình vì Hiếu của Kiều, dù ông đã dày công tô đậm màu sắc lãng mạn, say đắm, nhiều phần vượt ra ngoài chuẩn tắc đạo đức phong kiến khi miêu tả mối tình của hai người. Nguyễn Du luôn chủ ý ngợi ca tấm lòng hiếu thảo, giàu đức hy sinh của Kiều qua mười bốn lần mượn lời nhân vật nói lên điều đó. Trong ca dao, lời thanh minh của cô gái, khi bị chàng trai trách vì đã phụ tình,

phản ánh quan niệm xã hội đối với vị trí của Hiếu:

Xuống sông ôm đá trầm mình Sao em lại ở bạc tình bỏ anh?

- Em nào dám cãi mẹ cha

Theo anh sợ nỗi người ta chê cười...

[75, tr. 2603]

Nếu trót chạy theo Tình, nhất thời quên đi chữ Hiếu thì các cô không tránh khỏi tâm trạng hoang mang, day dứt:

Nhớ hồi mẹ đẻ thiếp ra

Nhai cơm sún nước, lớn mà chừng ni Nghe lời chàng bỏ mẹ ra đi

Thất hiếu với phụ mẫu có hề chi không huơ (hở) chàng?

[75, tr. 1767]

Qua lời ca, chúng ta thấy nỗi hoang mang, lo sợ vây lấy cô gái vì cô hồ nghi mình đã phạm vào tội bất hiếu. Cô cảm nhận mình đã đi chệch khỏi Đạo, tự đánh mất bản thân, hạ thấp mình trong con mắt dư luận. Cô thực sự rơi vào tâm trạng chông vênh, khi buông lỏng sợi dây Đạo lý.

Vì ý nghĩa thiêng liêng của chữ Hiếu mà người con luôn tìm cách làm sao để dung hòa Hiếu – Tình, mang đến một sự hoàn hảo vừa trọn đạo Hiếu vừa thỏa Tình riêng. Giải pháp trước tiên được đưa ra là chờ sự đồng ý của cha mẹ trong chuyện


tình duyên dù “tình trong như đã”, chắc chắn cha mẹ sẽ cảm thấy vui lòng và bản thân họ cũng thấy an tâm. Cô gái vừa tỏ ý mình vừa muốn nhắc nhở chàng trai:

- Phụ mẫu sơ (sở) sanh, hãy để người định Trong việc vợ chồng chờ lịnh mẹ cha.

Cô đã đưa ra sự trì hoãn một cách ý nhị, nhưng không thiếu sự thông minh, vừa dè dặt giữ ý vừa dứt khoát trong thái độ tuân thủ lễ giáo, trong hôn sự phải chờ cha mẹ quyết. Cô đã bảo toàn cả Hiếu, Hạnh và nhận được sự tôn trọng, quý mến của người con trai vì anh cũng biết rò:

- Đợi lịnh mẹ cha, anh đây cũng biết vậy

Nhưng em phải hứa chắc một lời anh sẽ cậy mai dong.

[75, tr. 1898]

Cả người con trai lẫn người con gái đều hiểu rằng họ phải chờ theo sự quyết định của cha mẹ trong chuyện tình duyên vì đó là một trong những hành động vừa đúng theo Đạo lý vừa chứng tỏ tình yêu thương tôn kính cha mẹ. Tuy nhiên, người con trai vẫn còn sự hoài nghi về mặt tình cảm, anh cần một sự đảm bảo bằng lời hứa của người con gái thì mới an lòng. Lời hứa là biểu hiện cụ thể của tình cảm mà cô gái dành cho anh. Nó là một lợi thế trong những tình huống chữ Hiếu tạo áp lực, kéo người con gái rời xa chữ Tình. Điều này cho thấy trong chừng mực nào đó vị thế của chữ Tình cân bằng với chữ Hiếu. Nó là điều kiện cần, quyết định của cha mẹ và những thủ tục hôn lễ là điều kiện đủ để đôi lứa tiến đến hôn nhân.

Em muốn sao cho nên nghĩa tào khang Đền ơn cúc dục dạ càng thêm vui

Như mình mà muốn gần tui

Có hai bên phụ mẫu làm sui mới thành...

[74, tr. 1053]

Một cuộc hôn nhân được xem là hoàn hảo khi nó thỏa mãn cả hai điều kiện trên, như người con thổ lộ:

Ơn thầy bằng núi, nghĩa mẹ tày non Hai ta là đạo làm con


Muốn duyên vừa ý đẹp phải cúi luồn mẹ cha.

[75, tr. 1880]

Người con chọn sự nhún nhường khôn ngoan, đảm bảo thỏa cái chung, đạt được cái riêng, đưa đến một kết quả trọn vẹn, mỹ mãn. Đây cũng chính là kết cục mà các cặp đôi đang yêu luôn mơ ước. Nó là một mơ ước bình thường nhưng không dễ trở thành hiện thực trong một xã hội mà mọi ham muốn, quyền lợi cá nhân đều bị gạt ra ngoài những ưu tiên của gia đình và xã hội. Vì thế, đôi khi nhún nhường cũng chưa giải quyết được vấn đề, họ nài nỉ, kể cả van lạy: “Thầy mẹ không thương thì miệng bẩm chân quỳ” [74, tr. 1076]. Nếu cần phải chịu đánh mắng họ cũng chấp nhận: “Cho dầu thầy mẹ không ưng/ Đèn chai nhỏ nhựa em cùng lăn vô” [74, tr. 543]. Họ cố mọi cách để có thể được cha mẹ thừa nhận mối tình của mình, chỉ có như vậy họ mới có thể giữ trọn đạo Hiếu mà không phụ bỏ Tình riêng.

Từ những giải pháp mà người con tiến hành để dung hòa Hiếu – Tình giúp chúng ta hiểu rằng: Hiếu là một lý lẽ bất biến, Tình muốn dung hợp với Hiếu phải tự uốn mình cho khớp với cái khung mà Hiếu đã đặt ra. Chính cái khung Hiếu đã có tác dụng hai mặt: nó vừa khống chế ham muốn cá nhân, không thừa nhận nhu cầu tự do yêu đương, chọn bạn đời của các chàng trai, cô gái vừa là cái phanh hãm sự tuột dốc nguy hiểm của cỗ xe tình yêu đang quá say đắm, mất kiểm soát, như lời xác nhận của một cô gái: “Chỉ còn đương (đang) nối trong cuồng/ Em còn phụ mẫu, luông tuồng sao nên”(chữ “cuồng” có lẽ viết nhầm, theo nghĩa phải là “guồng”) [74, tr. 489].

Qua diễn biến tâm trạng của các chàng trai, cô gái khi đứng trước sự chọn lựa Hiếu – Tình mà chúng tôi đã phân tích, chúng ta thấy được, theo truyền thống, chữ Hiếu đã có một vai trò quan trọng trong hệ tư tưởng của người dân Việt. Nó chiếm lĩnh ý thức hành xử và là thước đo phẩm hạnh của một cá nhân trong quan niệm xã hội. Hiếu không chỉ là biểu hiện của tình yêu thương cha mẹ mà còn là trách nhiệm, nghĩa cử đền ơn sinh thành, đáp nghĩa dưỡng dục, làm cho con người “khác với cầm thú”. Vì thế, khác với phương Tây, đối với người Việt, việc con chối bỏ trách nhiệm


phụng dưỡng chăm sóc cha mẹ, gửi cha mẹ vào viện dưỡng lão vì bất cứ lý do gì đều bị xem là trái Đạo, bất hiếu.

Trong mối quan hệ với Tình, Hiếu là điểm quy chiếu cho mọi diễn biến về tình cảm cũng như về hành vi của các chàng trai, cô gái khi vướng vào tình yêu. Đối với chữ Tình, chữ Hiếu có một uy lực mãnh liệt, nhiều lần nó xô ngã chữ Tình. Người con sẵn sàng từ bỏ tình riêng một cách cam chịu để bảo toàn chữ Hiếu. Tuy nhiên, trong văn bản tục ngữ, ca dao – dân ca, đôi khi chúng tôi tìm thấy ý định nổi loạn, vượt qua lễ giáo của người con dù bản thân họ hoàn toàn không muốn. Một đôi lần người con bất chấp lời khuyên của cha mẹ: “Mẹ cha nói rứa mặc người/ Đôi ta thương chắc lâu dài thì hơn” [74, tr. 1457]. Đối với những tình huống này, nếu chúng ta nhìn về mặt hiện tượng, như là một sự chống đối lễ giáo nhưng đi sâu vào bản chất thì vấn đề không hẳn như vậy. Theo thực tế khảo sát và những phân tích ở trên, chúng ta thấy biểu hiện chống đối của người con phần lớn nhằm vào những trường hợp thái quá, thiếu nhân tính của các bậc cha mẹ không có từ tâm và những định lệ hủ bại của một số địa phương, như cách họ phản ánh: “Hai ta chẳng quản giàu nghèo/ Ngặt vì cha mẹ cứ theo cựu truyền” [74, tr. 768]. Nhiều lần ép người con phải rời bỏ tình riêng vì những hủ tục mang tính hình thức: “Nghĩ thân qua quần áo chẳng lành/ Lễ nghi đâu có cam đành cách xa” [74, tr. 1053]. Đối với người con, Hiếu vẫn là một Đạo lý cao nhất trong mục tiêu hoàn thiện nhân cách.

Đối với Nho giáo, quan hệ huyết thống (phụ tử hữu thân) là cơ sở để xây dựng và đánh giá nhân phẩm của một người thông qua hành vi hiếu thảo với cha mẹ. Động lực chính để người con tỏ sự hiếu kính với cha mẹ là vì bổn phận (phụ tử chủ ân), bị chi phối bởi Lễ và mục đích cuối cùng là tạo dựng uy tín cá nhân để tiến đến công cuộc “bình thiên hạ”. Trong khi đó, đối với người dân Việt, Hiếu nảy sinh từ tình cảm và được nuôi dưỡng bởi Đạo lý. Tình yêu thương và nhu cầu được yêu thương cha mẹ là mục đích và là động lực thúc đẩy người con xem việc kính trọng, phụng dưỡng cha mẹ là lẽ sống. Người Việt mượn vỏ ngôn ngữ chữ Hán là Hiếu và một phần nội dung Đạo lý phù hợp với tâm thức dân tộc để chuẩn hóa ý nghĩa Hiếu kính của riêng họ, để cùng nhắc nhở nhau thực hiện và cũng nhằm vào mục đích răn


dạy thế hệ sau. Mặt khác, do hoàn cảnh khách quan, khi người con Việt dành trọn sự tin yêu và xác định lẽ sống của mình là vì cha mẹ thì trong chữ Hiếu của họ còn bao hàm cả chữ Trung. Trung và Hiếu đã hòa hợp, bổ sung cho nhau làm cho chữ Hiếu của người con trở nên nổi bật trong quan niệm làm người của họ.

3. 1. 3. Sự kết hợp Trung Hiếu (Hiếu Trung)

Về mặt Đạo lý, Trung, Hiếu là hai phẩm hạnh cơ bản xây nên những đức tính khác. Ở những phần trước chúng tôi đã phân tích, đối với Nho giáo, hai đức tính này thể hiện một cách tự nhiên ở hai môi trường khác nhau, Trung là đạo đức mang tính xã hội, bổn phận bề tôi với vua. Hiếu thể hiện trong gia đình, bổn phận của con cái với cha mẹ. Sự tương hỗ nhịp nhàng giữa hai mối quan hệ vua – tôi, cha – con tạo nên không khí hòa mục của gia đình và sự ổn định của xã hội. Người con luôn chịu sự chi phối và có tính liên tục trong cả cuộc đời mình bởi hai mối quan hệ đó. Người dân ý thức thân phận phụ thuộc của mình: “Bé thì con mẹ con cha, lớn thì con vua con chúa” [76, tr. 248]. Họ hiểu rằng thân thể và cuộc sống hiện tại mà họ có được do cha mẹ, vua chúa tạo lập và gây dựng, như trong phần Hiếu chúng ta thấy. Đồng thời ở đây còn nhấn mạnh ơn vua, nhắc nhở bổn phận tri thâm ân vua của một bề tôi:

Cây kia ăn quả ai trồng

Sông kia uống nước hỏi dòng tự đâu Quân thần hai chữ trên đầu

Hiếu trung hai chữ dãi dầu lòng son.

[74, tr. 422]

Vua trong mối quan hệ quân thần được ví như cha mẹ của dân vì vua là người chịu trách nhiệm về cuộc sống của người dân, theo Mạnh Tử; vua là người đại diện cho Trời ban mệnh, chi phối cuộc sống của người dân, theo quan niệm của Hậu Nho. Vì mối quan hệ hai chiều cả về Đạo lý lẫn chính trị mà hai đức hạnh Trung, Hiếu luôn được nhà cầm quyền phong kiến quan phương, quy định trong nhiều điều khoản luật pháp. Ở các địa phương, chúng trở thành nội dung được xoáy vào của các bản hương ước và là một trong những mục tiêu trọng yếu của giáo dục... Các bậc cha

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí