mẹ luôn nhắc nhở con cái ghi nhớ: “Công cha nghĩa mẹ chớ quên/ Ơn vua lộc nước mong đền con ơi!” [74, tr. 711]. Sự đồng bộ và nhất quán trong truyền bá và răn dạy đã tạo nên xu hướng xem trọng Trung, Hiếu, đưa chúng lên thành quy chuẩn đạo đức của xã hội, trở thành điểm quy chiếu để đánh giá nhân phẩm của một người. Vì thế, để một cá nhân được xã hội đánh giá là tốt trước hết người đó phải tròn Trung, Hiếu. Người dân quả quyết: “Như vầy mới gọi rằng trai/ Trên lo nghĩa chúa dưới mà thảo thân” [75, tr. 1775]. Đó cũng là kỳ vọng của các bậc cha mẹ trong trách nhiệm giáo dưỡng con cái. Họ bộc bạch:
Nuôi con cho được vuông tròn Mạ thầy dầu dãi, xương mòn gối long
Con ơi, cho trọn hiếu trung
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
[75, tr. 1803]
Ngoài ra, Hiếu, Trung còn là hai phẩm hạnh có cùng một “tiêu chí kiểm định” (chữ của Lê Huy Thực) [144, tr. 40], hoàn cảnh đặc biệt là thước đo chính xác về lòng trung và sự hiếu kính. Tục ngữ có câu: “Nhà nghèo biết con thảo/ Nước loạn biết tôi ngay” [77, tr. 2033]. Trung, Hiếu là đức hạnh cơ bản phản ánh nếp nhà, phúc nhà của một gia đình vì thế, cả hai không chỉ xác lập đạo đức của một cá nhân mà còn là danh thơm của gia đình, dòng tộc. Người dân rất ngưỡng vọng những gia đình có con cái Trung, Hiếu. Họ bảo rằng: “Những người hiếu đễ trung trinh, vẻ vang tiên tổ, thơm danh họ hàng” [77, tr. 2098].
Vì những lý do trên mà đạo Trung, Hiếu được bồi đắp từ rất sớm và được bổ sung liên tục, thống nhất trong suốt cuộc đời người con, tạo nên ý thức hành xử và mục tiêu phấn đấu của mỗi cá nhân. Người dân bảo rằng: “Đã sinh ra kiếp ở đời/ Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn” [74, tr. 789]. Khi trưởng thành, người con trai canh cánh trong lòng một nỗi lo làm sao cho trọn Trung, Hiếu: “Hai vai gánh nặng trìu trìu/ Vai mang chữ hiếu vai đèo chữ trung” [74, tr. 1188].
Trong một hoàn cảnh lịch sử nào đó, khi cả Trung và Hiếu đều hướng đến hai đấng sinh thành thì cả hai tương đồng về nghĩa, sánh cùng với nhau như một từ
Có thể bạn quan tâm!
- Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ, ca dao – Dân ca người Việt - 15
- Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ, ca dao – Dân ca người Việt - 16
- Sự Kết Hợp Trung Hiếu (Hiếu Trung)
- Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ, ca dao – Dân ca người Việt - 19
- Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ, ca dao – Dân ca người Việt - 20
- Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ, ca dao – Dân ca người Việt - 21
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
ghép đẳng lập vừa cho thấy sự gắn kết, bất phân vừa chuyển tải ý nghĩa chung nhất hướng đến một đối tượng. Chàng trai không giấu giếm điều đó khi tâm tình với một cô gái: “Một câu phân với nữ trinh/ Ơn cha nghĩa mẹ cho trọn tình hiếu trung” [75, tr. 2056]. Ngay cả trong một kết cấu thuần Việt cả hai cũng đi với nhau để bổ trợ ý nghĩa cùng hướng đến bậc sinh thành:
Chí hiếu, chí trung, chí đễ
Thầy mẹ mà thương rể thì bế đến con Hai ta đủ mặt vuông tròn
Thảo ngay ai trước, tiếng còn lưu đây.
[74, tr. 493]
Trung song hành với Hiếu (ngay với thảo) trong vai trò chính trị cũng như Đạo lý đã trở thành một cặp song trùng tương hỗ, chuyển hóa đối tượng. Nét nghĩa này được vận dụng phổ biến trong những câu hát của các cô gái. Các cô bảo rằng:
Hai đường trung hiếu mẹ cha Có ai gánh đỡ hay là còn không?
Còn không thì để em chờ Hay là có chốn cậy nhờ thì thôi.
[75, tr. 1723]
Triết lý Trung và Hiếu của Nho giáo nhằm vào đối tượng đàn ông, giới hạn trong lớp người “trí thức”, không nhằm vào “tiểu nhân” và “nữ tử”. Đối với các cô, Nho giáo yêu cầu các cô đảm bảo một chữ Hiếu xa vời, thiên về danh hơn là thực. Người dân trong chừng mực nào đó đã bị cuốn theo dòng xoáy chung, một số bậc sinh thành cho rằng: “nữ sinh ngoại tộc”, con gái là người ngoài. Gia đình mà trước khi theo chồng chỉ là nơi cô tạm sống chờ đến ngày “vu quy”. Gia đình chồng mới thật là nơi cô nương tựa suốt đời nên các cô phải hiểu: “Con gái là con người ta/ Con dâu mới thật mẹ cha mua về” [74, tr. 657]. Bổn phận người con gái với chính gia đình mình rất mờ nhạt, tất cả tập trung vào giai đoạn sau, khi về sống với gia đình chồng. Vì thế, bổn phận hiếu, trung với cha mẹ ruột của cô không được xác định cụ thể, trực tiếp mà chỉ gián tiếp thông qua cách giữ gìn phẩm hạnh cá nhân và
cách cư xử với gia đình chồng làm sao không ảnh hưởng đến tiếng thơm của gia đình. Các cô thường được nhắc nhở: “Chiều chồng lặng lẽ như tờ/ Khỏi bề sỉ nhục như thờ mẹ cha”, tránh làm “nhuốc nha” cha mẹ. Tuy nhiên, đó chỉ là hiện tượng “tiếp thu máy móc”, phổ biến và xuyên suốt trong tâm thức dân tộc là Đạo ngay thảo, “đạo làm người” mà ai cũng phải chú tâm làm tròn. Các cô gái cũng mang nặng trách nhiệm làm con, cần phải thực thi bổn phận hiếu, trung với cả cha mẹ mình. Ở phần Hiếu chúng ta đã thấy rò, khi kết hợp với Trung các cô cũng nhận thức rò ràng rằng: Hiếu, Trung không đơn giản là bổn phận, chúng là sự tổng hòa, kết tinh từ Đạo lý, trên cơ sở tình cảm và trách nhiệm với người thân, với gia đình.
Về phía người dân, cho phép người con gái thực thi bổn phận hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ không chỉ tạo nên sự gắn kết giữa những ai mang thân phận nữ nhi với gia đình mà còn cho thấy sự xem trọng con gái trong quan niệm dân gian, người dân vẫn truyền nhau câu tục ngữ: “Trai mà chi gái mà chi/ Sinh con có nghĩa có nghì thì hơn” [74, tr. 1094]. Quan niệm tiến bộ này đã biến nơi gởi thân tạm bợ theo quan niệm Nho giáo thành chỗ dựa duy nhất và vững chắc nhất khi các cô gặp sóng gió trong cuộc đời, cho phép các cô tuyên bố đầy tự tin:
Nên thì lập kiểng trồng hoa
Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê Chẳng nên thiếp trở lộn về
Dưỡng nuôi từ mẫu trọn bề hiếu trung.
[75, tr. 1620]
Xuất phát từ ý thức đền ơn sinh thành “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cùng với tình yêu thương và trách nhiệm chung của một người con nên các cô cũng có những suy nghĩ và hành động không khác gì các anh, các cô luôn đặt chữ Trung, Hiếu làm trọng. Các cô quyết làm tròn bổn phận làm con, trước khi gánh lấy bổn phận làm vợ: “Khoan khoan chờ đợi em cùng/ Em còn hai chữ hiếu trung chưa đền” [74, tr. 1298]. Đối với các cô gái, theo nhận xét của một nhà nho: “Phấn son dù chẳng bút nghiên/ Cũng nhân tâm ấy, há thiên lý nào?” [59, tr. 19], dù không được đến trường để tiếp thu kiến thức một cách chính
thức và quy củ nhưng họ vẫn có đủ khả năng lĩnh hội điều hay lẽ phải một cách thấu đáo bởi họ cũng là những con người biết suy nghĩ, có lòng trắc ẩn, thương tâm. Đối với người dân, Đạo lý “cương thường” không những là phép tắc ứng xử mà còn là lý lẽ của lương tâm, là tiêu chuẩn đạo đức chung để đánh giá nhân cách nên đối tượng hướng đến là tất cả mọi người không phân biệt trai gái vì một lẽ: “Làm người phải biết cương thường”.
Triết lý Trung, Hiếu của người dân hướng đến cha mẹ là vì tình thân: “Cha con thân lắm đấng người nên trông” [75, tr. 2448]. Bên cạnh đó, bậc sinh thành còn là những hình mẫu dung hợp hài hòa giữa Đạo lý và tình thương. Cha mẹ không chỉ là người sinh dưỡng mà còn là bậc tín thật, đáng kính nhất đối với người con. Lẽ sống, mục đích sống của người con trở nên thực tế hơn. Họ dồn tâm sức vào việc đền công cha, ghi nhớ nghĩa mẹ. Trung kết hợp với Hiếu hướng đến cha mẹ giờ là lẽ sống, là niềm an ủi, là điểm đậu an toàn nhất khi sóng gió cuộc đời vây lấy họ. Trung, Hiếu đi liền với nhau, bổ sung cho nhau làm nên sự hoàn hảo của “đạo làm con”. Người con luôn được nhắc nhở:
... Công cha nghĩa mẹ đừng quên Con nên báo đáp trả đền hẳn hoi Dù cho vật đổi sao dời
Có biết công cha mẹ mới phải người hiếu trung.
[74, tr. 1373]
Thế rồi chính cái đại Đạo ấy đã đẩy họ đến bi kịch, mang tâm trạng dằn vặt khó xử khi tình yêu lứa đôi trỗi dậy. Chúng ta thấy bối cảnh bộc lộ lòng Trung, Hiếu trong ca dao – dân ca là do bi kịch tình yêu dẫn dắt. Tình thâm máu mủ, cùng với bóng cả nghĩa mẹ, ơn cha không thể làm dịu được cơn khát tình yêu, ham muốn cá nhân khi người con bước vào tuổi yêu đương, nhiều lần Trung, Hiếu được đặt đối sánh với Tình.
3.1.4. Trung, Hiếu đối sánh với Tình
Hai chữ Trung, Hiếu được mang ra đối sánh, cân nhắc với chữ Tình, cấu trúc đối sánh mà chúng ta thường thấy trong ca dao – dân ca:
Mình về ta chẳng cho về Ta nắm lấy áo ta đề câu thơ Câu thơ ba chữ rành rành,
Chữ “trung”, chữ “hiếu”, chữ “tình” là ba…
[74, tr. 1495]
Đối với những người con dân quê, đời sống tinh thần và tình cảm của họ không chỉ có lý trí của Trung, Hiếu mà còn có cả ham muốn dục vọng là Tình. Chữ Trung biểu hiện trách nhiệm công dân, vì nước; chữ Hiếu là đạo làm con trong gia đình; chữ Tình là nghĩa lứa đôi, sự đòi hỏi thỏa mãn tình cảm giới tính. Đây là ba Đạo lý mà Nho giáo đã từng đề cập dưới quan điểm đạo đức chính trị gọi là “tam cương”. Tuy nhiên, chưa có sự cân bằng, thường vẫn thiên về Trung hay Hiếu, còn Tình – tình cảm vợ chồng bị giới hạn bởi Lễ nên có sự phòng ngừa theo quy tắc: “phu thê chủ biệt”, không được phép say đắm, thiết tha theo bản năng. Trong ca dao
– dân ca, cả ba nhiều lần được đặt đối sánh, tạo nên một thế đứng kiềng ba chân, một thế đứng lý tưởng bởi sự vững chắc của nó. Đối với người dân lao động, thế đứng đó giúp cho đời sống tâm hồn của họ cân bằng, thoải mái, đồng thời giải thoát được trạng thái ức chế đôi khi đến nghẹt thở. Đây cũng là mục đích ra đời và là nét đẹp vốn dĩ của ca dao – dân ca. Ngẫu nhiên ca dao – dân ca đã gợi ra và khỏa lấp điểm khiếm khuyết mà lâu nay, theo cảm nhận chủ quan, chúng ta cho đó là một trong những mặt tiêu cực lớn nhất của Nho giáo.
Nho gia luôn tin vào sự ảnh hưởng bên ngoài, sự lĩnh hội lý lẽ từ giáo dục giúp con người có đủ lý trí để kềm nén, kiểm soát những dục vọng bản năng bên trong, trong đó có tình cảm lứa đôi. Chính sự tách bạch dục vọng và ý chí, tập trung vào Trí xem nhẹ Tình đã làm giảm đi ý nghĩa nhân văn của Nho giáo. Vì vậy, nó đã gặp sự phản ứng khi bản năng thức tỉnh, đời sống riêng tư của mỗi người được quan tâm hơn. Đồng thời, bản thân chữ Trung hướng đến vua đã có sự mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực tiễn, tạo nên sự thất vọng trong các hiền sĩ, nho sinh… và họ đã chọn hướng thay đổi đối tượng để dung hòa, thích nghi với thực tế và cũng để tự an ủi cho nỗi buồn của chính mình. Họ chia sẻ tâm trạng đó với người dân bằng những
lời tâm tình mà giờ đã trở thành những sản phẩm nghệ thuật của cộng đồng. Cộng đồng đồng cảm và mượn lời họ để truyền cho nhau những xúc cảm chung. Còn Hiếu, tuy là Đại đạo nhưng vì sự áp đặt, nhiều phần bức ép đã đẩy người con đến những hành vi ngoài ý muốn, nhiều lần họ trách hờn cha mẹ:
Trách lòng cha mẹ cầm cân Đôi ta như nhện đang lần mối tơ
Hai ta đứng lại bưa cân
Trách lòng thầy mẹ phụ gần tham xa.
[75, tr. 2328]
Chính những bất cập, phi lý đó đã làm lung lay vị trí của Trung, Hiếu. Khi bản năng trỗi dậy đánh thức ham muốn cá nhân, đôi lần chữ Tình đã kéo được người con về phía mình. Người con dù biết phạm vào tội bất hiếu nếu chạy theo Tình, nhưng họ cũng không thể kềm chế nổi xúc cảm yêu đương. Họ phân trần: “Cũng vì chỉ vấn tơ vương/ Cho nên lỗi với thung đường mẹ cha” [74, tr. 737]. Ngay trong trường hợp vì Hiếu phải phụ Tình họ cũng không tránh khỏi tâm trạng dằn vặt, nhớ thương người bạn đời. Chúng ta hãy lắng nghe nỗi lòng của người chồng trong bài ca dao sau:
Đêm nằm day mặt trở ra,
Ngày nay mới biết cô ta thương mình Mình giữ chữ trung chữ hiếu
Còn thiếu chữ ân tình
Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong Làm thơ giấy trắng cẩn phong,
Tình thương ngãi nhớ ở trong…
[74, tr. 855]
Nội dung của bài ca dao đã cho thấy: sở dĩ Tình làm được điều đó vì nó được gia tăng sức mạnh của Nghĩa. Đối với các chàng trai cô gái, Tình không chỉ là xúc cảm, tình yêu thương mà nó còn bao hàm cả lý trí, sự tri ân người bạn đời, vì thế, sự nhớ mong của người con trai không chỉ là nỗi nhớ đơn thuần mà nó còn là sự dẫn
dắt của Nghĩa, trong tình có nghĩa và trong nghĩa có tình, khiến cho người con trai càng bị giày vò vì anh ta nhận ra mình không chỉ là người vong tình mà còn là kẻ bội nghĩa. Bội nghĩa vong tình thì quả là một người không có sự trắc ẩn của lòng Nhân. Điều này không cho phép một người tôn trọng Đạo lý phạm phải.
3.2. Cặp phạm trù Nhân – Nghĩa
3.2.1. Nhân
Mạnh Tử là người đã đưa ra định nghĩa cụ thể cho Nhân: “Nhân là sự trắc ẩn của lòng người” (Trắc ẩn chi tâm, nhân dã) [31, tr. 152]. Hiểu như thế nào là trắc ẩn? Trắc ẩn là sự thương xót như một người thương xót thân xác cha mẹ bị dòi, tửa đục khoét (trong phần Hiếu chúng tôi đã đề cập). Nhân của Nho giáo không đơn thuần chỉ là cảm xúc mà có sự tri nhận, phân tích, xử lý của lý trí. Điều kiện khách quan theo Mạnh Tử chính là những chuẩn mực đạo đức mà Nho giáo bồi dưỡng cho mọi người. Nhân của Nho giáo cũng không thể nằm ngoài sự kiểm soát của lý trí. Trước kia Khổng Tử đã hàm ý như vậy khi Người bảo rằng: “Chỉ người có lòng nhân mới biết yêu ghét như thế nào” (Duy nhân giả năng háo nhân, năng ố nhân) [29, tr. 50]. Đối với Khổng Tử, Nhân là một đức tính lý tưởng, con người luôn cố gắng để đạt tới, còn đạt tới được là một đích đến vượt khỏi khả năng của người thường. Người có thể đạt được đức Nhân là thánh (Hà sự ư nhân? Tất dã thánh hồ!) [29, tr. 96]. Bởi vì người đạt được đức Nhân là người: trong thì vui với hoàn cảnh, không bị dục vọng bản năng thúc ép làm những việc hại người, hại đức (Bất nhân giả bất khả dĩ cửu xử ước, bất khả dĩ trường xử lạc. – Kẻ bất nhân không thể bền chí chịu cảnh nghèo túng, không thể an nhiên lâu dài trong cảnh khoái lạc. Người nhân thì an vui với lòng nhân của mình, ở vào hoàn cảnh nào cũng vẫn yên ổn thảnh thơi) [29, tr. 50]; còn đối với bên ngoài thì cảm thương người, luôn sẵn lòng cứu giúp, chia sẻ khó khăn với người để người cũng có được những gì mình có (Nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân; kỷ dục đạt nhi đạt nhân; năng cận thủ thí; khả vị nhân chi phương dã dĩ – Người nhân, hễ muốn tự lập lấy mình thì cũng lo mà thành lập cho người; hễ muốn cho mình thông đạt thì cũng làm cho người thông đạt; hễ đối xử với mình thế nào thì cũng đối xử với người xung quanh như thế. Đó là phương pháp có thể theo
để đạt được đức nhân) [29, tr. 96]. Đức Nhân, theo Khổng Tử, trước là cố gắng giữ mình trong khuôn khổ những phép tắc đã được Lễ quy định “Khắc kỷ, phục lễ, vi nhân” [29, tr. 180]; xuất phát từ sự thành tâm (ái nhân) mà có những suy nghĩ và hành động cụ thể giữ mình, vì người (Nhân giả tất hữu dòng; dòng giả bất tất hữu nhân) [29, tr. 216]. Nếu cần thiết có thể hy sinh bản thân mình “Hữu sát thân dĩ thành nhân” [29, tr. 242]. Để có được những hành động mặc dù xuất phát từ tâm nhưng lại rất tỉnh táo ở cách suy xét và cân nhắc, đòi hỏi người Nhân phải biết kết hợp sự rung động cảm xúc và định hướng của lý trí. Vì thế, với Khổng Tử, đức Nhân không thể xa rời đức Trí. Khổng Tử thường hay so sánh người Nhân và người Trí “Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn. Trí giả động; nhân giả tĩnh. Trí giả lạc, nhân giả thọ” (Người trí ưa nước, người nhân ưa núi. Người trí hay lưu động; người nhân hay yên tĩnh. Bởi vậy người trí thường được vui sướng còn người nhân hay sống lâu) [29, tr. 94]. Mối quan hệ giữa Trí và Nhân là mối quan hệ tương hỗ, người Trí thì biết đặt lòng Nhân đúng chỗ, người nhân thì vận dụng Trí để cho lòng nhân phấn phát. Từ sự diễn giải này chúng ta cũng đoán biết được khái niệm về lòng Nhân của Khổng Tử không nhằm mục đích giáo hóa phổ thông mà hướng đến việc gây dựng nhân cách cho những người sẽ phải nhận trọng trách “trị quốc, bình thiên hạ”. Những người có học, sở hữu khả năng đoán biết được diễn tiến của thời cuộc và sẽ dùng những hiểu biết của mình để tu chỉnh bản thân, thuyết phục mọi người bằng chính phẩm hạnh của mình, tạo uy tín cá nhân, từ sự ảnh hưởng đó sẽ lôi kéo mọi người theo về con đường “chính đạo” (Huệ tắc túc dĩ sử nhân) [29, tr. 272]. Vì thế, phương pháp chính trị của Khổng Tử còn được gọi là “nhân trị”. Sau này, Mạnh Tử xác lập vị trí duy nhất cho phương pháp chính trị bằng lối diễn đạt so sánh: “Dân chúng kéo nhau theo bậc nhân đức, như nước chảy về chỗ thấp, thú chạy về chỗ hoang” (Dân chi qui nhân dã, du thủy chi tựu hạ, thú chi tẩu khoáng dã [31, tr. 18]). Dùng cách so sánh hình tượng mang tính tự nhiên, Mạnh Tử muốn ám chỉ sức mạnh tiềm ẩn và âm ỉ nhưng quyết liệt của đức Nhân, đồng thời cũng cho thấy tính tất yếu của kết quả, người có Nhân không ai địch nổi: “Nhân nhân vô địch ư thiên hạ” [31, tr. 256].