Vai Trò Của Việc Sử Dụng Di Sản Văn Hóa Trong Dạy Học Lịch Sử Việt Nam Lớp 10 Ở Trường Phổ Thông

hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm đáp ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [24, tr. 431]. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO cho biết đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa, họp tại Venise năm 1970.

Trong lĩnh vực này, khởi đầu định nghĩa của E.B.Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy (Primitive culture) xuất bản ở London năm 1871, đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau. Vào năm 1952, hai nhà Nhân học người Mỹ là A.Kroeber và C.Kluchkhohn đã viết một cuốn sách chuyên bàn về các định nghĩa văn hóa với tựa đề Văn hóa – tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa, trong đó đã dẫn ra và phân tích 164 định nghĩa về văn hóa. Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này, số định nghĩa văn hóa đã tăng lên đến trên 200 định nghĩa. Còn hiện nay thì số lượng định nghĩa văn hóa chưa được khẳng định chính xác.

Tóm lại, dù số lượng định nghĩa văn hóa có nhiều nhưng tựu chung lại, văn hóa mà theo E.B.Tylor định nghĩa văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội.

Với cách hiểu trên cùng những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là ranh giới giúp con người có điểm khác biệt với các loài động vật khác. Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển.

Khái niệm di sản

Theo nghĩa Hán Việt: di là để lại, sản là tài sản. Di sản văn hóa là những công trình văn hóa những tài sản văn hóa nổi tiếng của người xưa để lại cho đời sau, biểu trưng cho nền văn minh lúc bấy giờ.

Di sản văn hóa là toàn bộ sản phẩm sáng tạo của con người hàm chứa những giá trị về chân – thiện – mỹ, thể hiện dưới dạng biểu tượng và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Di sản đi liền với văn hóa nên cũng mang những đặc trưng của văn hóa, nhưng bản thân nó còn chứa đựng cả vốn kinh nghiệm, tri thức của loài người. Di sản văn hóa mang dấu ấn thời gian, là vật chứng cho mỗi sự kiện, mỗi nhân vật hay thời kỳ lịch sử nhất định.

Di sản văn hóa là toàn bộ tạo phẩm, chứa đựng trong nó những giá trị mà con người đã tích lũy được trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, là thành tựu của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau.

Theo Công ước Di sản thế giới thì di sản văn hóa là:

+ Các di tích: các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội họa, các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở trong hang đá và các công trình sự kết hợp giữa công trình xây dựng tách biệt hay liên kết với nhau mà do kiến trúc của chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí trong cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khảo học.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

+ Các di chỉ: các tác phẩm do con người tạo nên hoặc các tác phẩm có sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo, các khu vực trong đó có các di chỉ khảo cổ học có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mĩ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.

Tóm lại, theo Luật Di sản văn hóa quy định, di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam Lớp 10 trường trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định - 3

1.1.2. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam

Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hóa Việt Nam là bức tranh đa dạng văn hóa, là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Di sản văn hóa Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.

Căn cứ vào nguồn tài liệu lưu trữ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước ta hiện có 40.000 di tích Lịch sử - văn hóa. Trong đó, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, đã xếp hạng 3152 di tích có giá trị quốc gia, gồm 1468 di tích Lịch sử - văn hóa; 1478 di tích kiến trúc – nghệ thuật; 77 di tích khảo cổ; 129 danh lam thắng cảnh.

Căn cứ vào điểm 3, điều 29, chương IV – Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể. Mục 1: Di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, theo đề nghị của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch và văn bản thẩm định của Hội Di sản văn hóa Quốc gia, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định xếp hạng có 23 di tích quốc gia đặc biệt; đồng thời cũng đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) xem xét, đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thiên nhiên, di sản văn hóa vật thể tiêu biểu của nhân loại. Dưới đây là 7 di sản văn hóa được tổ chức UNESCO công nhận:

- Năm 1994, UNESCO đã chính thức công nhận Vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế giới bởi giá trị ngoại hạng về mặt cảnh quan. Năm 2000, vịnh Hạ Long tiếp tục được UNESCO công nhận lần thứ hai là Di sản địa chất thế giới vì những giá trị độc đáo về địa chất, địa mạo.

- Năm 2003, vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với hệ thống hang động giá trị hàng đầu thế giới với bốn điểm nhất: có sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, có những bờ cát rộng và đẹp nhất, có những thạch nhũ đẹp nhất.

Bên cạnh đó còn có 5 di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa nhân loại:

- Quần thể các công trình kiến trúc cố đô Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế được công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1993. Quần thể có diện tích hơn 500 ha cùng hệ thống những đền, chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc nguy nga tráng lệ gắn liền với cảnh quan thiên nhiên núi sông bao quanh.

- Khu phố cổ Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, được hình thành từ thế kỷ 16 – 17 và là một thương cảng của miền Trung. Năm 1999, phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Hiện nay, đây được coi là một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị thời phong kiến.

- Khu di tích Mỹ Sơn là khu vực đền tháp của người Chăm cổ, thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng 68km về hướng Tây – Tây Nam. Với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu của dân tộc Chăm. Đây được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Đạo Hinđu ở khu vực Đông Nam Á, và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam. Năm 1999, khu di tích Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.

- Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội được công nhận là di sản văn hóa thế giới vào đúng dịp mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (2010).

- Thành nhà Hồ được coi là thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27 tháng 6 năm 2011, tại Paris (Pháp), trong kỳ họp lần thứ 35 của Uỷ ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.

1.1.3. Phân loại di sản

Toàn bộ Di sản thế giới được tổ chức UNESCO chia thành 3 nhóm: Di sản văn hóa (nhân tạo); Di sản thiên nhiên thế giới (thiên tạo) và Di sản hỗn hợp (kết hợp giữa thiên tạo và nhân tạo). Trong đó, di sản văn hóa được phân chia thành hai loại là Di sản văn hóa vật thể và Di sản văn hóa phi vật thể.

1. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Theo UNESCO, có thể xếp văn hóa phi vật thể thành 14 loại hình như sau:

a. Ngôn ngữ

b. Lịch sử truyền miệng

c. Nghi lễ và tôn giáo truyền thống

d. Các hình ảnh, biểu tượng thiêng

e. Các loại thiết kế (không mang tính chất thiêng), ngành nghề thủ công truyền thống

f. Âm nhạc truyền thống

g. Múa truyền thống

h. Ẩm thực

i. Kỹ năng săn bắn thú (khả năng nhận biết hơi thú, bắt chước tiếng kêu của con vật, đánh bắt cá,...)

j. Các phương pháp tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên truyền thống

k. Kiến thức về thiên văn học, về y học cổ truyền

l. Các phương pháp truyền thống giữa các thế hệ trong cộng đồng.

Các loại hình kể trên được dựa theo cách phân loại của Prott, Lyndel, Some Considerations on the protection of the Intangible Heritage: Claims and Remedies (Một vài quan điểm về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể: Yêu cầu và giải pháp). Tuy nhiên, các hình thức kể trên chưa bao trùm toàn bộ các di sản văn hóa phi vật thể của loài người. Song dựa vào các tiêu chí trên, mỗi quốc gia có thể ra các bảo tồn, cách truyền dạy tài sản vô giá cho các thế hệ kế tiếp. Đối với Việt Nam, theo Luật Di sản văn hóa, chúng ta đang bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể sau đây:

a. Tiếng nói, chữ viết

b. Nghệ thuật trình diễn dân gian

c. Tập quán xã hội và tín ngưỡng truyền thống, tri thức dân gian

d. Ẩm thực truyền thống...”

2. “Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam – thắng cảnh và di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Theo đó:

- Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.

- Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị Lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.

- Di vật là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học có từ 100 năm tuổi trở lên.

- Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học” [23, tr. 31].

Thực tế, sự phân chia giá trị di sản văn hóa thành phi vật thể và vật thể chỉ có ý nghĩa tương đối. Theo Lưu Trần Tiêu cho rằng: “... sự phân chia thành văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể theo dạng tồn tại của sản phẩm sáng tạo chỉ có tính chất tương đối. Bởi lẽ dưới cái lớp vỏ vật chất của sản phẩm văn hóa chứa đựng giá trị về năng lực sáng tạo, về thẩm mỹ, về ý nghĩa và nội dung thể hiện gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan của một cộng đồng. Chẳng hạn, kiến trúc của ngôi đình làng với đồ thờ tự là sản phẩm văn hóa vật thể, nhưng còn bao nhiêu giá trị văn hóa khác của một đình làng (công đức của người được tôn vinh là Thành hoàng làng, giá trị thẩm mỹ, ý nghĩa phản ánh qua kiến trúc và những mảng trang trí, cũng như mối quan hệ giữa chúng với môi trường cảnh quan xung quanh, những hội hè, những quy tắc về tập tục sinh hoạt đình làng,...) lại là cái hồn, cái bản chất gắn kết không thể tách rời khỏi cái đình làng vật thể. Hay bản thân cơ thể người nghệ nhân

là vật thể nhưng óc thẩm mỹ, tài năng sáng tạo, sự khéo léo và tinh tế, những kinh nghiệm và bí quyết hành nghề... khiến họ tạo ra được những sản phẩm văn hóa tuyệt vời tồn tại dưới dạng phi vật thể. Thế thì làm sao có thể tách rời nhau được” [27, tr. 661-662].

Như vậy, các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có mối liên hệ chặt chẽ, bản thân chúng đã hòa quyện với nhau tạo nên một chuỗi di sản quý giá và thế hệ kế tiếp có trách nhiệm gìn giữ và phát triển. Giáo dục sử dụng di sản văn hóa (bao gồm vật thể và phi vật thể), di sản thiên nhiên, trong đó bao hàm cả giáo dục truyền thống. Theo Nguyễn Văn Huy – Uỷ viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, giáo dục di sản văn hóa chính là giáo dục về những di sản xung quanh chúng ta, các di sản xung quanh trường học. Hiện nay giáo dục nói chung và giáo dục Lịch sử nói riêng có nhiều nghĩa mở rộng so với giáo dục truyền thống.

1.1.4. Vai trò của việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường phổ thông

Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc giáo dục truyền thống hướng cho thế hệ trẻ tới sự phát triển năng lực một cách tự nhiên, chủ động và sáng tạo. Lứa tuổi trung học phổ thông là đối tượng rất cần có sự định hướng rõ ràng để xác định ngành nghề trong tương lai. Để thực hiện điều này, bản thân mỗi nhà giáo dục cần từng bước đổi mới phương thức giáo dục truyền thống để phù hợp với tâm lí và nhu cầu của các em. Tại Hội thảo “Chương trình giáo dục di sản trong nhà trường tại Việt Nam”, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đã nhấn mạnh rằng giáo dục di sản đã và đang từng bước trở thành yêu cầu, nhiệm vụ và động lực đối với các trường phổ thông, góp phần quan trọng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở Việt Nam.

Trước hết, mục đích hướng tới của việc giáo dục di sản là nhằm hình thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị của di sản văn hóa, rèn luyện tính chủ động sáng tạo trong đổi mới phương pháp

học tập. Hơn thế nữa, việc sử dụng di sản văn hóa tác động đến tư tưởng, tình cảm của học sinh. Thông qua di sản dù là vật thật hay qua phim, ảnh, tranh, vẽ,... được thầy cô sử dụng trong bài dạy đều góp phần nâng cao tính trực quan, giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận đối tượng liên quan tới bài học tồn tại trong di sản. Di sản văn hóa cũng là phương tiện quan trọng giúp học sinh rèn một số kỹ năng học tập như: kỹ năng quan sát, thu thập, xử lý thông tin,... qua đó tự chiếm lĩnh kiến thức cần thiết thu được trong quá trình tiếp cận với di sản. Đồng thời, còn là sự vận dụng kiến thức liên môn để giải thích những hiện tượng, sự vật có trong các di sản văn hóa. Thông qua phương pháp sử dụng di sản trong dạy học sẽ làm cho những giá trị về văn hóa, lịch sử, khoa học khởi sắc và có thể truyền cảm hứng cho các em. Điều này giúp học sinh không chỉ hiểu về di sản theo nghĩa rộng mà còn giúp các em tư duy sâu hơn về các giá trị truyền thống, tác động trực tiếp đến tình cảm, đạo đức và hình thành nhân cách.

Thứ hai, theo định hướng của Bộ giáo dục và Đào tạo, phương pháp dạy học hiện nay chuyển từ dạy học thụ động sang dạy học phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh làm chuyển biến vị trí người học từ thụ động sang chủ động. Việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học bộ môn là một phương pháp không mới, đây là sự kết hợp giữa yếu tố dạy học truyền thống và hiện đại. Do đặc thù bộ môn lịch sử nên khi giáo viên sử dụng các di sản để tăng sự tin cậy đối với các sự kiện quá khứ là điều tất yếu. Di sản văn hóa cũng mang đặc điểm rất phù hợp với yêu cầu của bộ môn qua các hiện vật mang tính chính xác, cụ thể, phong phú mà nó xuất hiện tại các sự kiện. Đây là loại tài liệu học sinh cần được tiếp xúc và giúp các em thoát khỏi tình trạng “hiện đại hóa lịch sử”. Việc sử dụng di sản còn giúp học sinh có thêm cơ sở vững chắc để nắm vững bản chất các sự kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ quy luật, bài học quan trọng của lịch sử, bước đầu đặt nền tảng cho học sinh thói quen nghiên cứu khoa học.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2023