Chỉ Tiêu Đánh Giá Kết Quả Quản Trị Rrtd Trong Cho Vay Khcn Của Nhtm


1.2.3.4 Xử lý tổn thất

Đây là khâu cuối cùng của quá trình quản lý rủi ro tín dụng. Theo đó, tổn thất dự kiến được coi là chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nó thường được tính vào giá của khoản tín dụng và được bù đắp bằng nguồn dự phòng. Tổn thất ngoài dự kiến nếu quỹ dự phòng không đủ bù đắp thì phải bù đắp bằng nguồn vốn tự có.

Cũng như đối với các loại rủi ro khác, kỹ thuật tài trợ rủi ro tín dụng bao gồm các phương án:

- Tự khắc phục: Là việc ngân hàng dùng nguồn tài chính tự có của mình để bù đắp cho khoản mất mát, tổn thất mà rủi ro tín dụng KHCN gây ra. Nguồn vốn tự có dùng để bù đắp tổn thất tín dụng KHCN chủ yếu từ việc thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng KHCN thường xuyên từ lợi nhuận hàng năm của ngân hàng.

- Chuyển giao rủi ro: Là việc chuyển giao toàn bộ hoặc một phần kinh phí bù đắp tổn thất cho đối tượng khác bên ngoài gánh chịu (chuyển giao trách nhiệm tài chính). Chuyển giao có thể là các phương pháp kiểm soát rủi ro tín dụng KHCN, hoặc phương án tài trợ rủi ro tín dụng KHCN.

Đối với hoạt động quản trị rủi ro tín dụng KHCN của ngân hàng, phương pháp chuyển giao tài trợ rủi ro tín dụng KHCN được thực hiện chủ yếu là bằng các hợp đồng bảo hiểm.

- Trung hòa rủi ro: là việc thực hiện trao đổi những đặc điểm có lợi cho nhau với một đối tượng khác để hai bên cùng có lợi, hạn chế mức độ tổn thất. Phương pháp trung hòa còn được hiểu là một chiến lược giảm thiểu rủi ro trong đó thời gian đáo hạn của tài sản và nợ phải trả phù hợp với nhau, tối thiểu hóa các tác động của lãi suất lên giá trị ròng theo thời gian… Trong quản trị rủi ro tín dụng, nó được thực hiện bằng các hợp đồng tương lai (Future) hoặc hợp đồng hoán đổi (SWAP).

Ngoài ra còn một số biện pháp xử lí rủi ro tín dụng KHCN như: Khi xảy ra rủi ro tín dụng thì ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp xử lý sau:

- Phát mại tài sản: Ngân hàng nên cố gắng thuyết phục khách hàng cá nhân tự nguyện bán tài sản của mình. Nếu khách hàng cá nhân không có thiện chí thì


ngân hàng sẽ tiến hành bán các tài sản cầm cố, thế chấp theo sự giám sát và phán quyết của cơ quan pháp luật.

- Trả nợ thay: Yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay cho người vay.

- Khởi kiện: Trong trường hợp cần khởi kiện, ngân hàng nhanh chóng hoàn thiện ngay các thủ tục pháp lý cần thiết để khởi kiện người vay.

- Các biện pháp khuyến khích trả nợ: Miễn, giảm một phần lãi suất, tính lại lãi… áp dụng cho các khách hàng cá nhân có thiện chí trả nợ gốc.

- Xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng KHCN: Về nguyên tắc, biện pháp này chỉ sử dụng đối với các khoản nợ xấu tín dụng KHCN.

1.2.4 Chỉ tiêu đánh giá kết quả quản trị RRTD trong cho vay KHCN của NHTM

Các chỉ tiêu đo lường chất lượng nợ

- Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay KHCN:


Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay KHCN =x 100%

Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng, qua đó phản ánh hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng KHCN. Nợ quá hạn cho vay KHCN phát sinh khi khoản vay đến hạn mà khách hàng cá nhân không hoàn trả được toàn bộ hay một phần tiền gốc hoặc lãi vay. Nợ quá hạn cho vay KHCN thường là biểu hiện yếu kém về tài chính của khách hàng cá nhân và là dấu hiệu rủi ro tín dụng cho Ngân hàng. Chỉ tiêu này còn cho thấy tình hình nợ quá hạn cho vay KHCN tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả năng quản lý tín dụng KHCN của ngân hàng trong khâu cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng đối với các khoản vay.

- Tỷ lệ nợ xấu cho vay KHCN:

Tỷ lệ nợ xấu cho vay KHCN =


x 100 %

Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ra trong hoạt động của tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì việc phân loại nợ được thực hiện như sau:


Nợ xấu cho vay KHCN là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4 và 5: Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu

+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.

Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần thứ 2. Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.

+ Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn.

+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.

Tỷ lệ nợ xấu cho vay KHCN cho biết trong 100 đồng tổng dư nợ KHCN thì có bao nhiêu đồng là nợ xấu tín dụng KHCN. Chính vì vậy tỷ lệ nợ xấu cho vay KHCN là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Nợ xấu cho vay KHCN phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này không còn ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà là nguy cơ mất vốn.

Tỷ lệ nợ xấu cho vay KHCN được quy định nhỏ hơn hoặc bằng 3% được coi là tỷ lệ đảm bảo an toàn mà TCTD phải đảm bảo cần hướng tới.

Tỷ lệ nợ xấu cho vay KHCN càng cao thì NHTM càng gặp khó khăn trong


kinh doanh, vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán, giảm lợi nhuận, tức là tỷ lệ nợ xấu cho vay KHCN càng cao thì chất lượng tín dụng càng thấp.

Trong quá trình đánh giá tỷ lệ nợ xấu của NHTM cần phải so với các chỉ nhánh NHTM trong cùng hệ thống ngân hàng. Đây là chỉ tiêu đánh giá quản trị rủi ro tín dụng của chỉ nhánh này so với chi nhánh khác trong cùng một hệ thống NH. Để từ đỏ có những đánh giá chính xác về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của NH. Nếu tỷ lệ nợ xấu của NHTM so với chỉ nhánh NHTM khác thấp hơn điều đó cho thấy quản trị rủi ro tín dụng của NHTM tốt hơn và ngược lại. Ngoài ra, cần phải so sánh tỷ lệ nợ xấu của NHTM so với toàn hệ thống ngân hàng. Có thể tỷ lệ nợ xấu qua các năm của NH tăng lên có thể là do nguyên nhân khách quan hoặc nguyên nhân chủ quan. Do vậy, để đánh giá tốt hơn quản trị rủi ro tín dụng của NHTM cần so sánh với hệ thống NHTM. Nếu tỷ lệ nợ xấu của NHTM thấp hơn so với tỷ lệ xấu chung của toàn hệ thống NH, điều đó cho thấy quản trị rủi ro tín dụng của NHTM hiệu quả hơn so với mặt bằng chung của toàn ngành. Còn nếu tỷ lệ nợ xấu của NHTM cao hơn so với tỷ lệ nợ xấu chung của toàn hệ thống thì NHTM nên xem xét và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện hơn trong quản trị rủi ro tín dụng của mình.

Một số chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá hoạt động quản trị rủi ro tín dụng:

Quy mô cho vay KHCN

Quy mô tín dụng không phải là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, tuy nhiên, nếu quy mô tín dụng tăng trưởng quá nóng, không tương ứng với khả năng kiểm soát của ngân hàng thì lúc đó, quy mô tín dụng sẽ phản ánh hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Do đặc điểm của cho vay KHCN là quy mô mỗi khoản vay nhỏ nhưng số lượng khoản vay lớn, vì vậy để có thể đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng nhằm nâng cao kết quả công việc đòi hỏi sự phục vụ nhanh chóng từ CBTD của ngân hàng. Do đó, trong quá trình thẩm định hồ sơ tín dụng các CBTD thường hay chủ quan, thẩm định dễ để cho vay nhằm vòi tiền khách hàng, thậm chí lợi dụng sự lỏng lẻo của công tác quản lý và sơ hở của các quy định để lừa đảo chiếm đoạt tài sản khách hàng, hoặc thông đồng với khách hàng gây ra những


tổn thất cho ngân hàng. Hay khi định giá tài sản đảm bảo, cán bộ tín dụng định giá theo nhu cầu vay vốn của khách hàng chứ không phải theo giá trị thực tế của tài sản đảm bảo. Rủi ro này còn tăng lên đối với cho vay tín chấp, do ngân hàng cấp tín dụng trên cơ sở thẩm định uy tín của khách hàng tốt hay xấu mà không có biện pháp bảo đảm của tài sản đảm bảo. Trong trường hợp đó, nếu thật sự khách hàng không có khả năng trả nợ vay hoặc có khả năng nhưng không có ý chí trả nợ vay trong khi việc quản lý thông tin về sự thay đổi nơi cư trú, công việc của khách hàng là một điều không dễ dàng thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng khi xử lý khoản vay để thu hồi nợ.

Quy mô cho vay KHCN thể hiện rõ qua các chỉ tiêu:

Dư nợ cho vay KHCN trên tổng tài sản =

Dư nợ KHCN bq trên số lượng cán bộ TD KHCN=

Số lượng KHCN trên số lượng cán bộ TD KHCN=

Dự phòng rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN

Dự phòng rủi ro đánh giá khả năng bù đắp tổn thất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Khi ngân hàng phải sử dụng quỹ dự phòng, điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng đang gặp phải tình trạng rủi ro mất vốn, do đó, dự phòng rủi ro là chỉ tiêu phản ánh tình trạng rủi ro mất vốn. Đây là một tiêu chí quan trọng cho thấy vai trò của hoạt động quản trị rủi ro tín dụng.

Căn cứ theo thông tư 02/2013/TT-NHNN của NHNN việc trích lập dự phòng RRTD:

“Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng rủi ro gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.


Dự phòng cụ thể là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể

Dự phòng chung là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể”.(1)

Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN:



Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong cho

vay KHCN


Dự phòng rủi ro tín dụng trong

cho vay KHCN được trích lập


=


Tổng dư nợ cho vay KHCN

x 100%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Bắc Ninh - 6


Tỷ lệ này phản ánh khả năng bù đắp rủi ro từ hoạt động tín dụng KHCN. Một tỷ lệ thấp hơn cho thấy chất lượng tín dụng tốt hơn.


Tỷ lệ bù đắp rủi ro mất vốn trong cho vay KHCN


Dự phòng rủi ro tín dụng trong cho

vay KHCN được trích lập


x 100%

=

Dư nợ cho vay KHCN có khả năng

mất vốn

Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro cho vay KHCN có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5).

Nếu tỷ lệ này cao, có thể xuất phát từ các nguyên nhân chính: (i) các khoản vay KHCN có độ rủi ro cao; (ii) ngân hàng có đủ khả năng tài chính để phòng hộ rủi ro tín dụng KHCN.

Một số chỉ tiêu khác

Hoạt động quản trị rủi ro trong cho vay KHCN giúp nhân viên ngân hàng kiểm soát được thực trạng hồ sơ xin cấp tín dụng có đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ với quy định của NH. Công tác nhận diện rủi ro, kiểm tra kiểm soát rủi ro… phản ánh được số hồ sơ không đạt yêu cầu xin cấp tín dụng. Điều này làm giảm thiểu rủi ro cho NH. Bởi có rất nhiều khách hàng bằng mọi cách, tìm mọi thủ đoạn để xin


(1) theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013


vay được vốn mà sử dụng không đúng mục đích… Một số tiêu chí khác phản ánh hoạt động quản trị rủi ro như:

- Số lượng hồ sơ KHCN không đạt yêu cầu cấp tín dụng

- Số lượng KHCN sử dụng vốn cấp tín dụng sai mục đích

- Số vụ được xử lí nhằm thu hồi vốn bằng cách bán tài sản, khởi kiện…

1.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân

1.2.5.1 Yếu tố khách quan

Thứ nhất, thị trường tài chính. Với một thị trường tài chính phát triển bên cạnh kênh huy động vốn ngân hàng sẽ có những hình thức huy động vốn khác như huy động từ cổ phiếu và trái phiếu… Việc phát triển thị trường tài chính không những hạn chế rủi ro tín dụng từ phía doanh nghiệp mà còn nâng cao khả năng quản lý rủi ro của ngân hàng. Khi các doanh nghiệp có khả năng huy động vốn trung và dài hạn trên thị trường chứng khoán, ngân hàng chỉ cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn, qua đó sẽ tăng cường khả năng kiểm soát cũng như hạn chế rủi ro cho ngân hàng.

Thứ hai, môi trường kinh tế. Hoạt động của ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy, sự ổn định hay mất ổn định của nền kinh tế sẽ có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng- đặc biệt là hoạt động tín dụng. Các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, khủng hoảng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng. Một nền kinh tế ổn định tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ tạo điều kiện cho các khoản tín dụng có chất lượng cao. Tức là các doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường ổn định thì khả năng tạo ra lợi nhuận cao hơn, từ đó mà có thể trả vốn và lãi cho ngân hàng. Ngược lại khi nền kinh tế biến động thì các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh cũng thất thường ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới khả năng thu nợ của ngân hàng.

Thứ ba, cơ chế chính sách. Các chính sách của nhà nước ổn định hay không ổn định cũng tác động đến chất lượng tín dụng. Khi các chính sách này không ổn


định sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó gây trở ngại cho ngân hàng khi thu hồi nợ và ngược lại. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý của Nhà nước (quy định, định chế, nguyên tắc, phương thức vận hành...) có ảnh hưởng tới quản trị rủi ro tín dụng, bởi vì các ngân hàng đều chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp của nhà nước ban hành, do đó hoạt động quản trị rủi ro tín dụng cũng bị điều chỉnh và chịu ảnh hưởng từ hệ thống quy định trong hoạt động tín dụng.

Thứ tư, yếu tố điều kiện tự nhiên. Khi các biến động bất thường xảy ra như động đất, núi lửa, bão lũ, lụt lội, hạn hán, dịch bệnh gia súc và dịch bệnh cây trồng... gây thiệt hại cho hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ thì rủi ro sẽ xuất hiện, đồng thời các ngân hàng có khả năng sẽ không thu hồi được toàn bộ vốn, nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ xuất hiện.

Thứ năm, môi trường xã hội. Quan hệ tín dụng được thực hiện trên cơ sở lòng tin. Nó là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng. Trong trường hợp môi trường xã hội không tốt, lợi dụng lòng tin để lừa đảo sẽ gây ra những rủi ro lớn cho ngân hàng.

1.2.5.2 Yếu tố chủ quan

Thứ nhất, chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng thể hiện khẩu vị rủi ro của ban lãnh đạo ngân hàng đối với từng ngân hàng, từng loại khách hàng cụ thể. Đối với mỗi khách hàng, ngân hàng có thể đưa ra các chính sách khác nhau cho phù hợp. Ví dụ như với các khách hàng có uy tín với ngân hàng thì ngân hàng có thể cho vay không có tài sản đảm bảo, có hạn mức cao hơn, lãi suất ưu đãi hơn; còn đối với các khách hàng khác, việc có tài sản đảm bảo là cần thiết.

Thứ hai, quy trình quản lý cấp tín dụng: Quy trình quản lý cấp tín dụng là tập hợp những nội dung, nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó bao gồm các bước bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra trong quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ. Quy trình quản lý cấp tín dụng của ngân hàng thương mại cần được thiết lập chặt chẽ mới đảm bảo không có các sai sót trong quá trình cấp và kiểm soát

Xem tất cả 139 trang.

Ngày đăng: 26/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí