Một Số Vấn Đề Lý Luận Chung Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Khách Hàng Cá Nhân Của Ngân Hàng Thương Mại.


+ Phạm vi không gian: đề tài tập trung nghiên cứu rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Vietcombank Bắc Ninh.

+ Phạm vi thời gian: đề tài phân tích dựa trên dữ liệu của Vietcombank Bắc Ninh trong giai đoạn 2017- 2020.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học là các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để phân tích, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu trong công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với cho vay khách hàng cá nhân tại ngân hàng Vietcombank Bắc Ninh. Luận văn kế thừa những nhân tố hợp lý của các công trình khoa học đã được nghiên cứu, tiến hành phân tích, lựa chọn tri thức để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.

- Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu:

+ Thu thập thông tin: Số liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo thường niên, các báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh Ngân hàng Vietcombank Bắc Ninh giai đoạn 2017-2020. Nguồn dữ liệu được sử dụng trong luận văn:

Các báo cáo, tài liệu, thông tin nội bộ từ năm 2017 đến 2020 của Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh.

Báo cáo sơ kết, tổng kết hoạt động kinh doanh hàng năm;

Báo cáo tình hình tín dụng bán lẻ tại Vietcombank Bắc Ninh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

Bảo cáo tình hình nhân sự, quy hoạch CBCNV giai đoạn 2017-2020.

Các báo cáo định kỳ khác.

Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Bắc Ninh - 3

Tác giả tập hợp các số liệu từ Phòng Kế toán, Phòng Kinh doanh và Phòng Hành chính – Nhân sự tại Vietcombank Bắc Ninh.

Tổng hợp các thông tin và số liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu từ các sách tham khảo, tạp chí, báo điện tử, các quy định liên quan đến quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân của Ngân hàng Vietcombank Bắc Ninh.


+ Phân tích xử lý thông tin: Sau khi thu thập đầy đủ các thông tin liên quan tới nội dung đề tài nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp biểu mẫu để phân tích, đánh giá dữ liệu. Dựa trên trên lý thuyết từ các giáo trình, sách, báo… kết hợp với việc tham khảo các nguồn dữ liệu từ khảo sát thực tế tại đơn vị, quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp sau: Phương pháp thống kê; Phương pháp phân tích, so sánh; Phương pháp tổng hợp, đánh giá để đưa ra kết luận, đề xuất để đạt được mục đích nghiên cứu.

Phương pháp thống kê tổng hợp:

Được sử dụng để sắp xếp, tổng hợp dữ liệu sơ cấp thu thập được một cách khoa học nhất, phục vụ cho quá trình phân tích thực trạng quán trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chỉ nhánh Bắc Ninh.

Phương pháp so sánh.

Là phương pháp nhằm nghiên cứu sự biến động và xác định mức độ biến động của các chỉ tiêu. Giá trị so sánh có thể chọn là số tuyệt đối, số tương đối hoặc là số bình quân. Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh các hiện tượng nhằm xác định nguyên nhân và tìm hướng giải quyết. Tác giả sử dụng phương pháp này trong chương 2 của luận văn để phân tích thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân, so sánh giữa các năm, tìm ra những thành tựu và hạn chế trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân.

Phương pháp phân tích, tổng hợp

Phân tích trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó hiểu được đối tượng nghiên cứu, hiểu được cái chung cái phức tạp của từng bộ phận. Bước tiếp theo của phân tích là tổng hợp. Tổng hợp là quá trình ngược với quá trình phân tích nhưng lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung, cái khái quát.

6. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương:


Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh.

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh.


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân của NHTM

1.1.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân

Theo Nguyễn Văn Tiến (2015), Giáo trình quản trị tác nghiệp Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội: Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra biến cố từ các khoản tín dụng gây tổn thất cho ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng tín dụng”.

Theo W.Koch (1995), Bank management, cho rằng: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn.

Còn theo Henie Van Greuning - Sonja Brajovic Bratanovic (1999, analyzing bank risk, the World Bank): Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng.

Hay theo Thomas P.Fitch (1997, Dictionary of banking terms), Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt động cho vay của ngân hàng”.

Theo Khoản 1, Điều 3, Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân


hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.

Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng. Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có khái niệm cụ thể về rủi ro tín dụng cho vay khách hàng cá nhân. Rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân là một bộ phận trong rủi ro tín dụng. Qua tìm hiểu, tác giả xin đưa ra khái niệm về rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân như sau:

Vậy rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động tín dụng khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại do khách hàng cá nhân không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.

Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ được đề cập trong các khái niệm về rủi ro tín dụng đó là rủi ro và tổn thất. Khi ta hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác xuất là khả năng khách hàng không thực hiện đúng cam kết, khả năng này có thể xảy ra, có thể không xảy ra; khi rủi ro tín dụng xảy ra, khách hàng thực sự không thực hiện được cam kết, số tiền mà Ngân hàng không thu hồi được thì được hiểu là tổn thất Ngân hàng phải gánh chịu. Trong nội dung về quản trị rủi ro, Basel II cũng đề cập đến khái niệm tổn thất dự kiến (expected loss – EL) và tổn thất ngoài dự kiến (unexpected loss – UL). Theo đó, tổn thất dự kiến được coi là chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nó thường được tính vào giá của khoản tín dụng và được bù đắp bằng nguồn dự phòng. Tổn thất ngoài dự kiến mới thực sự là rủi ro tín dụng, cần tính toán cụ thể để dự phòng về vốn tự có.

Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất giữa giá trị tổn thất với khái niệm rủi ro tín dụng. Sự nhầm lẫn này sẽ tác động bất lợi đến hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, trong đó ảnh hưởng lớn nhất đến tính chủ động trong các biện pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát từ quan niệm chỉ khi khoản vay phát sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro dựa trên cơ sở những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên cơ sở mức độ xác xuất xảy ra nợ quá hạn, sẽ dẫn đến tình trạng: Thứ nhất, những khoản cho


vay mà theo xác xuất thực sự có rủi ro sẽ không được trích lập; Thứ hai, làm mất tính chủ động trong quản trị rủi ro tín dụng, mức độ đáp ứng của nguồn bù đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong những trường hợp có cú sốc thì Ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro; Thứ ba, nó làm cho Ngân hàng không thể hiểu và đánh giá đúng mức độ rủi ro của mình, mặc dù trên thực tế có những Ngân hàng có nợ quá hạn rất thấp, nhưng danh mục tín dụng lại rủi ro rất lớn vì tập trung quá nhiều dư nợ vào nhóm khách hàng hay ngành rủi ro phá sản cao. Đây chính là luận cứ xây dựng chính sách phân loại nợ, chủ động trích lập quỹ dự phòng và sử dụng quỹ này trong quá trình quản trị RRTD.

1.1.2 Phân loại rủi ro tín dụng

- Rủi ro giao dịch

Rủi ro liên quan đến từng khoản tín dụng mỗi khi Ngân hàng ra quyết định cấp một khoản tín dụng mới cho khách hàng. Đây có thể xem là rủi ro cá biệt của từng khoản tín dụng, nó phát sinh do sai sót ở các khâu đánh giá, thẩm định và xét duyệt khi cho vay, hoặc phát sinh do thiếu chặt chẽ ở khâu theo dõi kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, hoặc phát sinh do sơ hở ở khâu theo dõi kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, hoặc phát sinh do sơ hở ở khâu bảo đảm và những cam kết rằng buộc trong hợp đồng tín dụng.

- Rủi ro danh mục tín dụng

Rủi ro liên quan đến sự kết hợp nhiều khoản tín dụng trong danh mục tín dụng của Ngân hàng. Nó có thể phát sinh do đặc thù cá biệt của từng loại tín dụng, chẳng hạn cho vay không có bảo đảm thì rủi ro hơn là cho vay có bảo đảm. Hoặc phát sinh do thiếu đa dạng hóa danh mục tín dụng. Chẳng hạn, do cạnh tranh lãi suất khiến Ngân hàng tăng lãi suất huy động làm cho lãi suất cho vay tăng theo. Kết quả là, các dự án có mức độ rủi ro thấp, do đó, suất sinh lợi thấp bị đánh bật ra, chỉ còn các dự án có suất sinh lợi cao mới được vay vốn Ngân hàng, các dự án này cũng kèm theo rủi ro cao. Tình hình này khiến cho danh mục tín dụng của Ngân hàng thiếu đa dạng hóa mà chỉ tập trung vào các dự án có mức độ rủi ro cao

- Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn (rủi ro đọng vốn): Khi đến thời hạn mà


ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay, những tổn thất này người ta gọi đó là rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn.

- Rủi ro do không có khả năng trả nợ: Là rủi ro xảy ra trong trường hợp doanh nghiệp đi vay đã mất khả năng chi trả

1.1.3 Đặc điểm của rủi ro tín dụng

Xuất phát từ bản chất của mối quan hệ tín dụng và từ khái niệm cũng như dấu hiệu của rủi ro tín dụng, có thể thấy những đặc điểm sau:

- Rủi ro tín dụng mang tinh chất giản tiếp

Đặc điểm này xuất phát từ nguyên nhân là trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một thời gian nhất định nên những thiệt hại, thất thoát về vốn xảy ra trước hết là trong quá trình sử dụng vốn của khách hàng. Biểu hiện rõ ràng của đặc điểm này là trong thực tế, ngân hàng thường biết sau cũng như biết không đầy đủ và chính xác những khó khăn, thất bại trong hoạt động kinh doanh của khách hàng có thể gây ra rủi ro tín dụng.

- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp

Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng. Đây là đặc điểm tất yếu của rủi ro tín dụng do đặc trưng ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Đặc điểm này cũng là hệ quả của đặc điểm thứ nhất vì mối liên hệ gián tiếp với rủi ro tín dụng khiến sự đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng càng thể hiện rõ ràng.

- Rủi ro tín dụng có tính tất yếu luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tin dụng của ngân hàng

Thông tin không cân xứng là nguyên nhân khiến các nhà kinh tế cũng như các nhà ngân hàng cho rằng kinh doanh ngân hàng thực chất là quản lý rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng. Do không thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh doanh của khách hàng đi vay, bất cứ một khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro đối với các ngân hàng.


1.1.4 Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến RRTD trong cho vay khách hàng cá nhân, chúng ta có thể phân chia ở các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:

Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh

Môi trường kinh tế không thuận lợi (chịu tác động của các nhân tố như thay đổi chính sách của Chính Phủ, chỉ số cán cân thanh toán, hoạt động đầu tư nước ngoài, giá trị của đồng bản tệ, lãi suất,...); Chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp (chịu sự tác động bởi những thành tựu công nghệ, mức độ cạnh tranh, chính sách của Chính Phủ, những điều luật mới về sở hữu, cầm cố và thế chấp tài sản...hoặc những quy định mới có thể đe dọa sụt ổn tại của doanh nghiệp,...)

Việc biển động của giá cả, đặc biệt là giá cả hàng hóa chủ lực, nguyên nhiên liệu đầu vào như sắt thép, xăng dầu...tác động ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai dự án, đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng và gây ra rủi ro tín dụng. Mặt khác, những diễn biến phức tạp của thị trường hàng hóa, thị trường xuất khẩu, là nguyên nhân tiềm ẩn, chứ đựng rủi ro đối với hoạt động tin dụng.

Nguyên nhân từ phía khách hàng

- Nguyên nhân bất khả kháng

Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng được cấp tín dụng làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng, như: Thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô (chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan…) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách hàng và Ngân hàng.

Khi những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến khách hàng cũng như Ngân hàng, cũng có khi tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho khách hàng. Nhiều khách hàng có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Có những trường hợp khách hàng bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn gốc và lãi. Tuy nhiên, hầu hết các khách hàng bị tổn thất bởi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/05/2023