Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Theo Khoản Cấp Tín Dụng (Kctd)

xếp hạng khoản vay theo yêu cầu Basel II trong quá trình áp dụng cần có sự kiểm định khả năng dự báo, hạn chế rủi ro theo định kỳ quy định bằng các phương pháp và công cụ đo lường tiên tiến, các bài kiểm tra sức chịu đựng theo các tình huống kinh tế cụ thể. Tuy nhiên, lựa chọn mô hình nào để xếp hạng cũng phải có 3 loại dữ liệu bắt buộc [50], [51], [58]:

(i) Dữ liệu không trả được nợ: Về mẫu tại thời điểm đánh giá, cần tối thiểu 50 khách hàng không trả được nợ và 100 khách hàng trả được nợ;

(ii) Dữ liệu từ hệ thống xếp hạng bên ngoài: có thể sử dụng báo cáo tài chính của các công ty làm một nguồn dữ liệu từ hệ thống bên ngoài;

(iii) Dữ liệu từ hệ thống xếp hạng nội bộ: Nếu không thể thu thập được các số liệu từ hai nguồn ở trên thì dữ liệu từ hệ thống xếp hạng nội bộ của các ngân hàng là nguồn có thể sử dụng, cho dù thực tế hệ thống số liệu này chưa thực sự tốt, nhưng hệ thống sẽ hỗ trợ cho việc thu thập toàn bộ số liệu lịch sử liên quan đến các quyết định đánh giá, cấp tín dụng đối với khách hàng.[Phụ lục 2.5: Các bước cơ bản để xây dựng hệ thống xếp hạng theo Basel II].

(2) Mô hình định lượng rủi ro tín dụng

Nếu như trong mô hình chuẩn, khi thiết kế hệ thống XHTD thì cần có hai hệ thống xếp hạng hoạt động độc lập nhưng đồng thời (xếp hạng tất cả các đối tượng liên quan đến khoản tín dụng - PD và chính khoản tín dụng – LGD). Trên thực tế, các ngân hàng chỉ xây dựng một hệ thống đánh giá về các đối tượng liên quan đến món vay để xác định ra giá trị PD, hoặc xây dựng một hệ thống mà mỗi phần được xác định một nửa nhằm đưa ra EL, PD và LGD.

Sử dụng phương pháp IRB có khả năng định giá các khoản vay. Khi các thước đo RRTD là EL và UL đã được lượng hóa, ngân hàng có cơ sở để xác định lãi suất cho vay‚ qua cơ chế tính giá bù đắp rủi ro hoặc phần bù rủi ro. Với cơ chế tính giá đó, ngân hàng phòng tránh được việc cấp tín dụng không bù đắp được rủi ro, từ đó sàng lọc, lựa chọn dần các khách hàng tốt, điều chỉnh rủi ro và nâng cao hiệu quả đầu tư của danh mục tín dụng. Theo Basel II, các giải pháp quản lý danh mục đầu tư tín dụng phải cung cấp được công cụ để đo lường vốn kinh tế cũng như hệ số tương quan giữa các khách hàng và UL ở cấp độ danh mục tín dụng.

Căn cứ vào các tính toán đo lường rủi ro các khoản tín dụng, danh mục cấp tín dụng, xác định tỷ lệ yêu cầu vốn cho rủi ro tín dụng (công thức 2.4) tương ứng

với từng phương pháp tiếp cận QTRRTD (phương pháp chuẩn SA, phương pháp xếp hạng nội bộ IRB).

(3) Các phương thức kiểm định các mô hình tính toán

Đánh giá mô hình: Sau khi xây dựng bộ xếp hạng, bước tiếp theo sẽ là đưa vào sử dụng và đánh giá bộ xếp hạng, đây là một bước rất quan trọng vì tại bước này mô hình sẽ được kiểm định liệu có thể đáp ứng các quy định yêu cầu đề ra khi xây dựng. Việc đánh giá mô hình đáp ứng được yêu cầu thiết kế hay không, sử dụng nhiều kĩ thuật kiểm định như chỉ số AR và ROC, chỉ số này có thể đánh giá được tính hiệu quả của mô hình xếp hạng. Thông thường mô hình có thể chấp nhận có AR (60 - 80%) và ROC (70 – 80%) [Xem Phụ lục 2.2.a. Lý thuyết đánh giá mô hình ].

Theo Basel II [51, Điều 417,tr.248], điều kiện tối thiểu để các ngân hàng có thể dùng kỹ thuật đánh giá và ước lượng trong mô hình là: (i) Phải chứng minh cho cấp quản lý rằng mô hình xây dựng có khả năng dự báo tốt mà không gây ra các lỗi mang tính hệ thống; (ii) Có bộ phận rà soát các dữ liệu đầu vào của mô hình; (iii) Số liệu sử dụng để xây dựng mô hình xếp hạng cần phải có đủ tính đại diện; (iv) Có chỉ dẫn mô tả sự kết hợp giữa đánh giá theo mô hình và theo phương pháp truyền thống; (v) Có quy trình kiểm soát do con người thực hiện để đánh giá mô hình xếp hạng; (vi) Hệ thống đánh giá cần được duy trì kiểm định định kỳ.

2.4.3. Năng lực quản trị rủi ro theo khoản cấp tín dụng (KCTD)

Cơ cấu thành phần rủi ro tín dụng bao gồm, theo Hennie van Greuning & Sonja Brajovic [64]: Rủi ro theo khoản cấp tín dụng (rủi ro giao dịch) và rủi ro danh mục. Năng lực quản lý các thành phần rủi ro tín dụng này là không giống nhau.

Rủi ro theo khoản cấp tín dụng (rủi ro giao dịch) là tập hợp các rủi ro: (i) Trong quá trình thẩm định, phân tích tín dụng, lựa chọn khách hàng cấp tín dụng (rủi ro lựa chọn); (ii) Từ các tiêu chuẩn bảo đảm cho quá trình thực hiện giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng đúng và an toàn (rủi ro bảo đảm); (iii) Các tiêu chuẩn về tài sản đảm bảo, vốn đối ứng, thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng, thao tác quy trình cấp tín dụng, rủi ro đạo đức từ khách hàng và nhân viên ngân hàng.

Năng lực QTRR theo khoản cấp tín dụng trong khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II cần: (i) Tuân thủ nghiêm ngặt chính sách và quy trình thẩm định, phân tích tín dụng, tránh rủi ro xuất phát do thông tin bất đối xứng; (ii) Lựa chọn và thẩm định khách hàng theo đúng tiêu chí đánh giá,

hạn chế tối đa các tiêu chí mang yếu tố định tính, tăng các tiêu chí định lượng. Xây dựng bộ lọc (chỉ tiêu loại bỏ ngay) để hạn chế khách hàng không đạt yêu cầu; và

(iii) Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát một cách hiệu quả, liên tục nhằm phát hiện sớm các sai sót, dấu hiệu cảnh báo rủi ro sớm, rủi ro mang yếu tố chủ quan.

2.4.4. Năng lực quản trị rủi ro theo danh mục tín dụng (DMTD)

Thành phần của rủi ro theo danh mục tín dụng bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố mang tính riêng biệt của mỗi chủ thể xin cấp tín dụng hoặc ngành kinh tế. Do là các yếu tố riêng biệt, gắn với chủ thể, đối tượng cấp tín dụng nên rủi ro nội tại là yếu tố không thể triệt tiêu [65], [83];

Rủi ro tập trung là rủi ro khi ngân hàng dồn vốn cho một số ít khách hàng, một số ngành kinh tế hẹp, một số loại hình tín dụng, một khu vực địa lý, hay một số chi nhánh chính trong hệ thống, đi ngược lại với nguyên tắc đa dạng hóa để phân tán rủi ro. Theo quan điểm của Basel [51], khi bất kỳ rủi ro đơn lẻ/nhóm rủi ro nào đó có khả năng tạo ra tổn thất đủ lớn liên quan đến mức vốn, tài sản hoặc tổng tổn thất của ngân hàng đều coi là rủi ro tập trung.

Do tính chất của rủi ro theo danh mục tín dụng, cách thức QTRR theo danh mục tín dụng khác với cách thức theo từng khoản cấp tín dụng, tương ứng năng lực cho quản trị rủi ro theo danh mục cũng không giống nhau. Thực hiện phương pháp quản trị rủi ro theo danh mục tính dụng chủ động, cụ thể là (i) Hoạch định (mục tiêu quản trị danh mục tín dụng, thiết lập danh mục tín dụng phù hợp mục tiêu, xây dựng các chính sách thực thi); (ii) Tổ chức thực hiện và giám sát danh mục tín dụng (bộ máy tổ chức, hệ thống quản lý rủi ro tập trung và rủi ro độc lập, hệ thống kiểm soát nội bộ hỗ trợ, tổ chức giám sát thực hiện danh mục); (iii) Điều chỉnh danh mục tín dụng (điều chỉnh nội bảng, điều chỉnh ngoại bảng).

Đối với năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo danh mục cần: (i) Thiết lập đủ và đúng giới hạn danh mục tín dụng để quản lý; (ii) Giám sát, báo cáo mức độ tập trung theo dư nợ tín dụng theo các danh mục tín dụng (ngành kinh tế, lĩnh vực đầu tư, thời hạn, khách hàng, sản phẩm, chi nhánh, vùng địa lý); (iii) Kiểm tra sức chịu đựng bằng các tình huống kinh tế giả định (stress test) để điều chỉnh danh mục tín dụng cho phù hợp; (iv) Sử dụng mô hình đo lường rủi ro danh mục tín dụng (mô hình biến cố vỡ nợ, mô hình ma trận xếp hạng tín nhiệm) và (v). Nghiên cứu các công cụ điều chỉnh danh mục tín dụng (mua bán nợ, hóa đổi tín dụng, chứng khoán hóa nợ).

2.4.5. Năng lực tài chính (NLTC)

Năng lực về tài chính trong khung năng lực QTRRTD là một trong những chỉ tiêu định lượng về năng lực QTRRTD, biểu hiện qua chỉ tiêu an toàn vốn. Năng lực tài chính là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động quản trị rủi ro nói chung và QTRRTD nói riêng tại ngân hàng. Năng lực tài chính dùng để cấu trúc danh mục tín dụng, sao cho tổng tổn thất của toàn danh mục phù hợp với khả năng chịu đựng rủi ro của vốn ngân hàng.

Năng lực tài chính còn là khả năng đáp ứng các yêu cầu về vốn theo tính toán định lượng của chuẩn mực Basel II [51]. Theo thông lệ, các ngân hàng cần phải xác định mức an toàn vốn tối thiểu CAR cho toàn hệ thống (tính cho tất cả các loại rủi ro) là trên 8%. Riêng đối với rủi ro tín dụng, theo công thức tính toán 2.4: Tỷ lệ vốn yêu cầu cho RRTD trong Basel II, tỷ lệ yêu cầu vốn này sẽ khác nhau nếu phương pháp tiếp cận rủi ro tín dụng là khác nhau. Theo phương pháp chuẩn, công thức tính toán hệ số rủi ro tuân theo hệ số rủi ro cung cấp bởi tổ chức XHTD bên ngoài. Với phương pháp IRB, hệ số rủi ro được tính toán căn cứ vào kết quả đánh giá nội bộ, ngân hàng cung cấp số liệu định tính, công thức tính toán tuân thủ theo Basel II.

Năng lực tài chính của các ngân hàng còn được đánh giá thông qua các chỉ tiêu hiệu quả (ROA, ROE) [46]; Chỉ tiêu về khả năng thanh khoản (chỉ số năng lực cho vay, tỷ suất đầu tư trên vốn nhạy cảm, chỉ số cấu trúc tiền gửi); Chỉ tiêu về chất lượng tín dụng (tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu) [45]. Các ngân hàng có năng lực tài chính tốt thì các chỉ tiêu này sẽ có xu hướng tăng qua các năm, biểu hiện khả năng sinh lời, sử dụng vốn có hiệu quả.

Ngoài ra, một trong những yếu tố quyết định để các NHTM tiến hành áp dụng Basel II vào nâng cao năng lực QTRRTD chính là mối quan hệ giữa chi phí và lợi ích mang lại. Mối quan hệ này đánh giá góc độ yêu cầu về vốn tối thiểu là yêu cầu vốn tối thiểu sẽ tăng giảm bao nhiêu, tăng giảm tại nhóm khách hàng, sản phẩm nào. Các ngân hàng, tổ chức tín dụng cần có tính toán về chi phí cần đầu tư cho việc áp dụng Basel II. Tại một số ngân hàng lớn, theo số liệu khảo sát [68], [70], thì chi phí cho việc áp dụng Basel II sẽ chiếm khoảng 0.05% tổng tài sản của ngân hàng, tối thiểu cần trên 50 triệu USD, có 1/3 số đó thậm chí cho rằng cần đầu tư nhiều hơn 100 triệu USD cho việc áp dụng Basel II vào quản trị rủi ro. Các ngân hàng Châu Á, cần 88

triệu USD trung bình cho toàn bộ quá trình áp dụng, dự kiến rằng chi phí ban đầu cũng đã có thể lên tới con số 100 triệu USD, chiếm 40-80% tổng chi phí chủ yếu đầu tư cho hệ thống công nghệ thông tin. Các NHTM phải nâng cao năng lực tài chính để có sự chuẩn bị tốt về vốn và tài chính khi triển khai khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Đây không chỉ là các khuyến nghị mà là định hướng, mục tiêu chiến lược kinh doanh và xây dựng hệ thống QTRR nói chung, QTRRTD nói riêng tại các NHTM.

2.4.6. Năng lực cơ sở hạ tầng tin học (HTTH)

Để ứng dụng thành công thông lệ quốc tế và các chuẩn mực Basel II vào khung năng lực QTRRTD, các NHTM cần phải chuẩn bị tốt năng lực cơ sở hạ tầng tin học [50]. Năng lực cơ sở hạ tầng trong khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II bao gồm nền tảng công nghệ thông tin, hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về rủi ro tín dụng.

Trên thực tế, khó khăn trong quá trình ứng dụng Basel của các quốc gia, các ngân hàng đều bắt nguồn từ hạ tầng CNTT (hệ thống corebanking, hệ thống khởi tạo khoản cấp tín dụng, hệ thống quản lý TSĐB và kho dữ liệu). Bảng 2.2 mô tả các yêu cầu tối thiểu về thời gian thu thập số liệu hệ thống.

Bảng 2.2: Yêu cầu về thời gian thu thập số liệu để xây dựng mô hình


Yếu tố

Khách hàng doanh nghiệp

Khách hàng cá nhân

PD

5 năm dữ liệu (§463, 466)

5 năm dữ liệu (§463,466)

LGD và EAD

7 năm dữ liệu (§472, 478) – Phương pháp tiếp cận nâng cao

5 năm dữ liệu (§473, 479) – Phương pháp tiếp cận cơ bản và

nâng cao

Hệ thống đáp ứng các yêu cầu

tối thiểu

3 năm sử dụng (§445) – Phương pháp tiếp cận cơ bản và nâng cao

3 năm dữ liệu (§445) – Phương pháp tiếp cận cơ bản và nâng

cao

LGD và EAD

thử nghiệm

3 năm sử dụng và dự báo (§445) – Phương pháp tiếp cận cơ bản và

nâng cao

3 năm sử dụng và dự báo (§445) – Phương pháp tiếp cận

cơ bản và nâng cao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 6

Nguồn: Trích các chuẩn mực trong Basel II [51]

Theo khung năng năng lực QTRRTD, các NHTM cần năng lực về cơ sở hạ tầng tin học bao gồm: (i) Phản ánh chính xác, đủ và kịp thời dữ liệu; (ii) Đảm bảo đo lường tốt rủi ro tín dụng. Dữ liệu đối với rủi ro tín dụng đảm bảo chất lượng cơ sở dữ liệu, có thể sử dụng xây dựng mô hình đánh giá rủi ro và đưa ra các quyết

định quản lý rủi ro [74]; và (iii) Hệ thống lưu trữ dữ liệu xây dựng được cơ sở dữ liệu đáp ứng cả về số lượng và chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế [51].

2.4.7 Năng lực nguồn nhân lực (NLNL)

Nhân sự là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Hệ thống ngân hàng ngày càng hiện đại, nghiệp vụ tín dụng ngày càng phức tạp đòi hỏi nhân sự có trình độ, năng lực, khả năng tư duy, độ nhạy cảm và đạo đức nghề nghiệp, đây là những nhân tố quyết định đến hiệu quả nâng cao năng lực QTRRTD. Sự bố trí nhân sự thiếu hợp lý về khối lượng quản lý khách hàng, năng lực quản lý từng khoản tín dụng, danh mục tín dụng đều dẫn tới suy giảm chất lượng QTRRTD, ảnh hưởng đến năng lực QTRRTD của ngân hàng.

Nâng cao chất lượng nhân sự để đội ngũ nhân sự đáp ứng đủ năng lực điều hành, thực hiện quy trình, chính sách, các công cụ trong khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Muốn vận hành được các công cụ chuẩn đo lường, yếu tố nguồn nhân lực phải chuyên nghiệp, thông qua quá trình học hỏi, đào tạo lâu dài, không có lộ trình hoàn chỉnh cho việc triển khai Basel II, mà phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng ngân hàng ở mỗi quốc gia. Xây dựng các tiêu chí đánh giá năng lực cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ trong hoạt động tín dụng, QTRRTD nói riêng. Giám đốc phụ trách CNTT, phụ trách dữ liệu phải được đào tạo chuẩn mực để có thể bao quát, kiểm soát tình hình chung, đề ra quy định trong ứng dụng và tuân thủ công nghệ đối với toàn bộ nhân viên của ngân hàng. Việc đào tạo cho nhân viên của các phòng, ban, bộ phận trong ngân hàng nhất thiết nên tiến hành hàng năm, đáp ứng yêu cầu đề ra của Basel. Tất cả nhân viên trong ngân hàng đều phải biết Basel II là gì, vận hành ra sao. Việc truyền thông Basel II cũng như đào tạo, cần có biện pháp từ trên xuống dưới, xây dựng tài liệu cụ thể để chia sẻ kiến thức giữa các phòng, ban, đơn vị, tuân theo nguyên tắc cốt lõi Văn hóa rủi ro – Quản lý rủi ro là trách nhiệm của cả hệ thống ngân hàng.

2.4.8. Bộ máy kiểm toán nội bộ (KTNB)

Các loại rủi ro, rủi ro tín dụng có ảnh hưởng đến hiệu quả và mục tiêu hoạt động của tổ chức tín dụng cần phải được nhận dạng đo lường, đánh giá thường xuyên, liên tục để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và có biện pháp quản lý rủi ro thích hợp. Hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ là một phần không thể tách rời trong hoạt động hàng ngày của các NHTM. Kiểm soát nội bộ được thiết kế, cài đặt, tổ chức

thực hiện ngay trong mọi quy trình nghiệp vụ, nhất là nghiệp vụ tín dụng. Năng lực QTRRTD của các NHTM không thể thiếu tính hiệu quả hoạt động của Bộ máy kiểm toán nội bộ (KTNB) với các yêu cầu và nguyên tắc cụ thể:

Về tổ chức bộ máy, nhân sự KTNB: Tổ chức của bộ máy KTNB được xây dựng thành hệ thống thống nhất theo ngành dọc hoặc tổ chức bộ phận KTNB tại hội sở chính tùy theo quy mô, mức độ, phạm vi và đặc thù hoạt động của NHTM. KTNB thuộc Ban kiểm soát (BKS) và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của BKS. Đối với nhân sự của bộ máy KTNB cần đảm bảo về số lượng, chất lượng nhân sự, có sự phân cấp ủy quyền rõ ràng, minh bạch, quy định hạn mức rủi ro cụ thể đối với từng cá nhân, bộ phận đáp ứng các yêu cầu nhằm đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán nội bộ theo quy định và chuẩn mực chung quốc tế.

Về hệ thống văn bản quy định, quy trình kiểm toán nội bộ: Hệ thống KTNB là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình nội bộ, cơ cấu tổ chức của NHTM nhằm bảo đảm ngăn ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra. Hệ thống quy định nội bộ đối với KTNB cần thường xuyên rà soát, điều chỉnh và bổ sung đảm bảo hành lang pháp lý hoạt động.

Về chức năng nhiệm vụ của bộ máy KTNB: Giám sát tính tuân thủ pháp luật, điều lệ trong hoạt động tín dụng của các NHTM. Rà soát, đánh giá tính độc lập, khách quan về mức độ đầy đủ, tính thích hợp, hiệu lực và hiểu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ trong bộ máy KTNB; Phát hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và hoạt động tín dụng; Đảm bảo an toàn thông tin. Ban kiểm soát chỉ đạo yêu cầu bộ phận KTNB triển khai các chức năng, nhiệm vụ tuân thủ quy định, cập nhật các chuẩn mực quốc tế.

Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ theo chuẩn mực quốc tế bao gồm các thành phần: (i) Môi trường kiểm soát; (ii) Hệ thống nhận diện và đánh giá rủi ro;

(iii) Các hoạt động kiểm soát trong quy trình; (iv) Hệ thống thông tin quản lý; (v) Công tác kiểm tra, giám sát nội bộ chuyên trách.

Giám sát và kiểm tra quá trình thực hiện: (i) Phát hiện các dấu hiệu của các khoản nợ xấu, nợ có vấn đề. Ngân hàng phải kịp thời phát hiện và quản lý chặt chẽ các khoản tín dụng có vấn đề, thực hiện phân loại nợ quá hạn, nợ khó đòi cũng như nợ có vấn đề, phân tích nguyên nhân, thực trạng và khả năng giải quyết; (ii) Thực hiện quá trình sàng lọc khách hàng, thông qua việc thu thập thông tin từ những

khách hàng vay; (iii) Hình thành quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất. Trên cơ sở phân loại nợ theo chất lượng, hàng năm các NHTM tiến hành trích lập dự phòng rủi ro cho các tổn thất ước tính dựa trên kết quả phân loại nợ và xếp hạng tín dụng. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản nợ xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Mục đích sau cùng của các điều chỉnh này là đưa hoạt động tín dụng trở về quỹ đạo an toàn, trong tầm kiểm soát của ngân hàng.

Các NHTM cần chú trọng xây dựng bộ máy KTNB theo quy chuẩn quốc tế để phát huy hết chức năng, nhiệm vụ, nâng cao năng lực của kiểm soát nội bộ trong khung năng lực QTRRTD chung của các NHTM. Tuy nhiên, để bộ máy này hoạt động hiệu quả tại các NHTM, cần có sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng trung ương (Ngân hàng nhà nước) thông qua hoạt động thanh tra, giám sát việc tuân thủ quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của các NHTM. Định kỳ đánh giá, báo cáo chất lượng bộ máy KTNB, xử lý các vi phạm nếu phát hiện.

2.5. Kinh nghiệm quốc tế về cách tiếp cận và ứng dụng chuẩn mực Basel II nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro rín dụng

Trong quá trình tiếp cận, áp dụng các yêu cầu Basel II vào QTRRTD giúp các NHTM Việt Nam xây dựng, nâng cao khả năng, điều kiện thực hiện QTRRTD, tận dụng lợi thế đi sau, nghiên cứu các bài học kinh nghiệm áp dụng các chuẩn mực quốc tế sẽ giúp các NHTM Việt Nam trong quá trình triển khai.

2.5.1. Kinh nghiệm ngân hàng OCBC Singapore

Từ tháng 7 năm 2004, Basel II được các ngân hàng Singapore đề xuất lộ trình thực hiện, các quy định hỗ trợ việc ứng dụng Basel II vào bắt đầu từ tháng 8/2005 cho đến tháng 9/2007 khi quy định số MAS 637 của Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore (MAS) chính thức áp dụng đã thay thế quy định MAS 637 cũ xây dựng dựa trên các quy định của Basel I. Cách thức các ngân hàng này áp dụng Basel vào hoạt động quản trị rủi ro tín dụng thực hiện như sau [76]:

Năm 2007, tất cả các danh mục sản phẩm tín dụng đều được áp dụng chạy song song mô hình quản trị trước đây (Basel I) và mô hình có sự điều chỉnh để áp dụng Basel II. Sang giai đoạn năm 2008 - 2009, mục tiêu là trên 70% nhóm các danh mục tín dụng bắt đầu áp dụng hệ thống xếp hạng nội bộ, chuyển giao dần từ phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn hoặc áp dụng tiếp cận xếp hạng nội bộ theo phương pháp cơ bản, trừ

một số ngân hàng như PT, NISP vẫn tuân theo phương pháp chuẩn (SA) đến hết năm 2010 sau đó mới chuyển sang phương pháp nội bộ (IRB); hay một số trường hợp ngoại lệ được quy định cụ thể được áp dụng toàn bộ theo SA. Giai đoạn 2010 – 2013 là thời gian mà các ngân hàng dần tiếp cận và chính thức tiếp cận theo phương pháp nâng cao AIRB với yêu cầu ít nhất là 85% danh mục tín dụng đều phải tuân theo AIRB.

Một lộ trình rõ ràng, cụ thể và có hướng dẫn mang tính bắt buộc các ngân hàng tại Singapore phải tuân theo để ứng dụng các chuẩn mực quốc tế và quy định trong Basel vào QTRRTD. Nhưng lộ trình này chỉ là điều kiện ban đầu để các ngân hàng theo đó áp dụng, muốn các chuẩn mực trong Basel có thể phát huy thì MAS cũng đưa thêm các quy định cụ thể về việc xây dựng IRB đó là: (i) Tối thiểu 60% của trọng số rủi ro trong phương pháp tiếp cận IRB và tỷ lệ này tăng lên 85% trong thời gian 2 năm kể từ khi áp dụng; (ii) Mô hình xếp hạng bắt buộc phải đánh giá độc lập; (iii) Phải chạy thử mô hình chấm điểm; (iv) Chính sách và quy trình hoạt động phải đồng nhất, tuân thủ theo quy định trích dự phòng trong MAS 637; (v) Chạy thử mô hình trong 1 năm; (vi) Chức năng kiểm toán mô hình phải có và hoạt động hiệu quả.

Trụ cột 1 trong Basel II – Yêu cầu về vốn tối thiểu

Theo khảo sát khi áp dụng ngân hàng OCBC Singapore chỉ ra rằng, để tiếp cận phương pháp xếp hạng nội bộ theo Basel II cần phải có 2 thành phần độc lập riêng biệt là bản thân người vay vốn và đánh giá về chính khoản tín dụng, thể hiện theo công thức xác định khoản lỗ dự kiến (Expected loss – EL). Công thức 2.5: Xác định các khoản lỗ dự kiến trong Basel II:

EL = PD *(EAD*LGD) (2.5)

Trong đó: PD – đánh giá rủi ro từ phía khách hàng, đưa ra dự báo liệu khách hàng này có khả năng không trả được nợ, đánh giá độc lập chưa tính đến các yếu tố bảo đảm liên quan; (EAD * LGD) đánh giá tính chất rủi ro của cấu trúc khoản tín dụng độc lập hoàn toàn với rủi ro từ chính khách hàng vay. [76]

Xác định các nhân tố PD, LGD và EAD dựa trên 3 phương pháp tiếp cận của Basel II về quản trị rủi ro tín dụng: SA, FIRB và AIRB, trong đó các ngân hàng Singapore đưa ra mục tiêu áp dụng AIRB vào năm 2010.

Về danh mục tín dụng của ngân hàng OCBC thì có 6 loại chính: tín dụng liên ngân hàng, tín dụng quốc gia, quỹ đầu tư, kinh doanh chứng khoán, doanh nghiệp

và cá nhân. OCBC sẽ tuân theo nguyên tắc cách tiếp cận phù hợp với danh mục tín dụng. Cách tính toán trọng số rủi ro tín dụng theo Basel II bao gồm các khoản vay đã giải ngân, các khoản vay hạn mức được duyệt nhưng chưa giải ngân quy đổi theo chỉ số chuyển đổi tín dụng (credit conversion factor - CCF) tương ứng với tỷ lệ theo các khoản đã giải ngân. CCF theo Basel I sẽ là 0% (cho các món vay dưới 1 năm) hoặc 50% (các khoản vay trên 1 năm); Basel II với cách tiếp cận tiêu chuẩn SA thì tỷ lệ tương ứng này là 20%/50%; cách tiếp cận FIRB tỷ lệ là 75%; trong khi cách tiếp cận AIRB thì EAD sẽ xác định theo mô hình nội bộ.

Nhân tố tiếp theo trong tính toán vốn cho Basel là trọng số rủi ro (Risk weight- RW): RW = f (PD, LGD, EAD, M, cho vay) và tỷ lệ vốn cấp (Capital Factor – Vốn cấp 1 là 6%, tổng là 10%). Công thức 2.6 tính toán rủi ro tín dụng:

Yêu cầu vốn theo Basel II = (khoản vay đã giải ngân + hạn mức vay chưa giải ngân *CCF) * RW * tỷ lệ vốn cấp 1 (2.6)

Đối với các danh mục nhóm khách hàng kinh doanh (non-retail) theo cách tiếp cận FIRB thì các ngân hàng cần tự đưa ra EAD, Kỳ hạn M (Maturity), số lượng khoản vay và PD. Căn cứ vào phương pháp tiếp cận, các ngân hàng Singapore đã xây dựng các hệ thống xếp hạng khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp theo từng sản phẩm tín dụng có trong danh mục khách hàng.

Trụ cột 2 – Quy trình giám sát

Trong trụ cột 2 của Basel II quy định các ngân hàng phải tiếp cận các công cụ rủi ro và đặt ra mục tiêu về vốn tương ứng với danh mục rủi ro, môi trường kinh doanh hiện tại bao gồm không chỉ rủi ro tín dụng mà cả rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động. Với trụ cột 2 thì MAS có yêu cầu báo cáo chạy thử Quy trình đánh giá sự thiếu hụt vốn nội bộ (Internal Capital Adequacy Assessment Process - ICAAP) trước thời điểm 1/9/2008 của các ngân hàng. Cùng với đó MAS cũng đưa ra bản hướng dẫn cụ thể cho các ngân hàng Singapore sẵn sàng áp dụng ICAAP bắt đầu từ 6/2009 (9 tháng sau khi kết thức chạy thử), giúp MAS theo dõi việc tuân thủ tỷ lệ yêu cầu về vốn. ICAAP tại trụ cột 2 của Basel II phân chia rõ ràng: vốn cần theo quy định, vốn cần theo tính toán kinh tế, vốn có thể cung cấp. Nội dung chính trong ICAAP bao gồm: Khẩu vị rủi ro, các định nghĩa, công cụ quản lý rủi ro, đảm bảo tính hiệu quả các kỹ thuật đánh giá rủi ro; Mục tiêu và thành phần vốn, đảm bảo rằng dữ liệu đầu ra và kết quả của ICAAP là hợp lý; ICAAP đảm bảo phải được đánh giá một cách độc lập.

Tuân thủ theo các hướng dẫn đã có trong Basel II, ngân hàng Singapore thực hiện quy trình giám sát tương ứng với từng giai đoạn theo cách tiếp cận QTRRTD. Theo cách tiếp cận trong từng giai đoạn đó, các thành phần để xây dựng mô hình, yêu cầu thiết kế chính, phân nhóm tài sản, phân chia nhóm khách hàng, cách xác định EAD, yếu tố tài sản đảm bảo trong mô hình đánh giá đều được thiết kế kỹ thuật chi tiết đến từng sản phẩm, nhóm khách hàng tín dụng. Sau đó, tất cả chi tiết, dữ liệu cần cho việc tính toán yêu cầu về vốn được đưa vào hệ thống tín toán trọng số rủi ro tín dụng (Fermat) tự động đưa qua trực tiếp EDW – cơ sở dữ liệu của các ngân hàng, không có bất kỳ sự can thiệp của con người nào trong quá trình số liệu xử lý. Tất cả dữ liệu cung cấp đầu vào được lưu trữ chính xác và đầy đủ trong hệ thống dữ liệu. Fermat sẽ tự tính toán theo lập trình sẵn có, bằng các phương pháp toán học đưa ra các báo cáo cần thiết về rủi ro tín dụng theo Basel quy định. Có thể thấy quy trình giám sát tại ngân hàng Singapore đảm bảo được tính chính xác hay không phụ thuộc nhiều nhân tố trong đó nhân tố liên quan đến hệ thống lưu trữ dữ liệu mang tính quyết định đến 70%.

Trụ cột 3–Kỷ luật thị trường

Mục tiêu của trụ cột 3 là đảm bảo việc bổ sung đủ yêu cầu về vốn tối thiểu (tại trụ cột 1) và thực hiện các quy trình giám sát (theo trụ cột 2). Các ngân hàng Singapore phải thực hiện và cung cấp các thông tin sau khi được yêu cầu:

(i) Tần suất quý: Thông tin về sự thiếu hụt vốn theo các các nhóm vốn cấp 1, Tổng vốn; Chỉ số CAR của vốn cấp 1, chỉ số CAR của tổng vốn;

(ii) Hàng năm: Kế hoạch mục tiêu và chính sách quản trị rủi ro cho từng nhóm rủi ro riêng biệt; Phạm vi ứng dụng: sự khác biệt giữa quy định chung so với các quy chuẩn kế toán; Cấu trúc vốn: mô tả cụ thể điều kiện, kỳ thực hiện các công cụ về vốn và các khoản giảm thiểu vốn; Vốn thiếu hụt – Capital Adequacy; Báo cáo về quản trị rủi ro tín dụng (tổng số dư nợ tín dụng và số dư nợ áp dụng theo SA, FIRB và AIRB); Phân tích khía cạnh trọng số rủi ro cho từng nhóm tài sản theo cách tiếp cận SA và danh mục nợ dưới sự kiểm soát theo cách tiếp cận nâng cao; Mô tả các hệ thống chấm điểm nội bộ và phương pháp xác định các mức PD; Lỗ thực tế của kỳ báo cáo, so sánh với các kỳ trước; Các công bố về giảm thiểu rủi ro tín dụng, danh mục vay liên quan đến rủi ro tín dụng từ các bên tham gia và danh mục vay chứng khoán.

Những khó khăn khi áp dụng Basel II

Ngân hàng Singapore có nền tảng phát triển tài chính tương đối tốt, được sự hỗ trợ tích cực của MAS nhưng khi áp dụng các chuẩn mực Basel trong QTRR nói chung và QTRRTD nói riêng vẫn vướng phải những khó khăn mang tính chất chung đối với tất cả các quốc gia cũng như khó khăn xuất phát từ chính bản thân các ngân hàng. Thứ nhất, một trong những yếu tố kỹ thuật quan trọng của Basel II, chính là các hệ thống XHTD nội bộ, làm sao để các ngân hàng khi xây dựng hệ thống đánh giá này đảm bảo rằng chúng đủ mạnh về quản trị, kiểm soát và quy trình đánh giá nó là hiệu quả. Thứ hai, ngay cả khi có thể xây dựng được hệ thống các mô hình xếp hạng chuẩn thì cũng chưa có thể được đảm bảo rằng việc tính toán vốn yêu cầu là chính xác nếu không giải quyết được các lỗi quản trị chỉ đơn giản là lỗi về mã khách hàng CIF, không đánh giá định kỳ xếp hạng tín dụng, mức xếp hạng. Thứ ba, chất lượng dữ liệu thu thập không chính xác, đây là các nhân tố đầu vào để xếp hạng, ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng, tính toán trọng số rủi ro. Thứ tư, sự phân bổ chức năng, trách nhiệm các yếu tố về sản phẩm, dữ liệu thu thập, cập nhật và quy trình tín dụng.

2.5.2. Kinh nghiệm ngân hàng trung ương Ấn Độ trong hướng dẫn, giám sát các ngân hàng thương mại áp dụng các chuẩn mực Basel

Nghiên cứu kinh nghiệm Ngân hàng Trung ương Ấn độ hỗ trợ hệ thống ngân hàng thương mại triển khai các chuẩn mực Basel [80], cho thấy lộ trình ứng dụng các chuẩn mực Basel vào QTRR nói chung và QTRRTD nói riêng. Tại Ấn Độ, nhận thức về rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng được Ngân hàng dự trữ quốc gia (The Reserve Bank of India - RIB), và các cơ quan giám sát quy định hoạt động ngân hàng quan tâm từ sớm. Trước khi các chuẩn mực quốc tế của Basel I được ra đời và đưa vào áp dụng năm 1992 thì hoạt động quản lý rủi ro các ngân hàng tại Ấn Độ đã tuân thủ theo hệ thống đánh giá sức khỏe hoạt động (The Heath Code Systems 1985-1986, HCS). Hệ thống HCS cung cấp các thông tin từng cá nhân, chất lượng các danh mục tín dụng và dự báo trước các vấn đề có thể xảy ra hỗ trợ cho mục đích quản lý rủi ro. Tất cả các ngân hàng (trừ ngân hàng vốn nước ngoài) đều phải tuân theo các quy định trong HCS.

Khi Basel I ra đời và đưa vào áp dụng tháng 4/1992, RIB đã ban hành các định mức về yêu cầu vốn mới cho các ngân hàng Ấn Độ. Theo quy định này thì các ngân hàng phải xác định cụ thể các nguồn vốn Cấp 1, Cấp 2 theo Basel và gắn trọng số tài sản rủi ro RWA cho chúng, từ đó xác định yêu cầu vốn tối thiểu CAR. Tháng 2/2005, RIB

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí