d). Tỷ lệ dư nợ có Tài sản đảm bảo
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá được mức độ an toàn của tín dụng của một ngân hàng.
Tỷ lệ dư nợ có TSĐB = (Dư nợ có TSĐB/Tổng dư nợ) x 100%
Tỷ lệ này càng cao thì độ an toàn càng lớn, tuy nhiên cần phải xem xét kỹ lưỡng chất lượng của TSĐB. BIDV đã quy định rõ về giá trị tài sản được tính làm đảm bảo theo từng loại tài sản và tính hợp pháp hợp lệ của tài sản đó.
Giá trị TS được tính làm đảm bảo = giá trị TS định giá * Hệ số an toàn
Đối với tài sản có tính hợp pháp hợp lệ càng cao, thì hệ số càng cao.
Bảng 2.9: Tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm tại Chi nhánh
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2010 | Năm 2011 | Năm 2012 | |
Dư nợ có TSĐB | 690 | 795 | 987 |
Tỷ lệ dư nợ có TSĐB | 75% | 80% | 82% |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Bidv Bắc Quảng Bình.
- Tỷ Lệ Nợ Quá Hạn Trên Tổng Dư Nợ Tại Bidv Bắc Quảng Bình
- Bảng Tổng Hợp Phân Loại Nợ Tại Bidv Bắc Quảng Bình Năm 2010-2012
- Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng Tmcp Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam – Chi Nhánh Bắc Quảng Bình Trong Thời Gian Tới.
- Giải Pháp Hạn Chế, Bù Đắp Khi Có Rủi Ro Xảy Ra.
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bắc Quảng Bình - 13
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
(Nguồn: Báo cáo phân loại nợ của BIDV Bắc Quảng Bình năm 2010-2012)
Qua số liệu 3 năm cho thấy, dư nợ có TSĐB tăng cao là do Chi nhánh đã rất coi trọng việc bổ sung tài sản thế chấp. Việc định giá tài sản thế chấp được tiến hành hàng năm theo sát với diễn biến của thị trường. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay, Chi nhánh bám sát khách hàng để đôn đốc việc quyết toán giá trị tài sản, làm cơ sở để hạch toán giá trị TSĐB.
Một số dư nợ không có TSĐB là do:
+ Một số dự án đang trong giai đoạn đầu tư chưa có tài sản như: xi măng Áng Sơn 1, xi măng Văn Hóa.
+ Một phần dư nợ cho vay tín chấp cho khách hàng cá nhân trong lĩnh vực tiêu dùng và một phần dư nợ không có TSĐB theo chính sách khách hàng của BIDV.
2.3.3. Đánh gía thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV Bắc Quảng Bình.
2.3.3.1. Những kết quả đạt được trong công tác quản trị rủi ro tín dụng
Nhìn chung công tác quản trị rủi ro tín dụng của BIDV Bắc Quảng Bình đã có những thay đổi rõ rệt so với trước đây, cụ thể là:
- BIDV Bắc Quảng Bình đã đánh giá được tầm quan trọng của công tác quản trị RRTD và đã tích cực thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao khả năng phòng ngừa và phát hiện RRTD.
- BIDV Bắc Quảng Bình là ngân hàng đầu tiên trên địa bàn ứng dụng mô hình quản trị rủi ro theo hướng hiện đại và hướng đến các chuẩn mực quốc tế với việc phân tách các Phòng chức năng theo hướng chuyên môn hóa cao hơn. Đây là mô hình tổ chức khá phổ biến của các ngân hàng trên thế giới, Việc áp dụng Quy trình của BIDV đối với các khách hàng bán buôn và Quy trình đối với khách hàng bán lẻ là sự ứng dụng quy trình cấp tín dụng của các ngân hàng trên thế giới, đã đem lại một số thay đổi tích cực như tăng cường khả năng kiểm soát tính tuân thủ các quyết định cấp tín dụng thông qua bộ phận quản trị rủi ro, nâng cao tính khách quan trong hoạt động cấp tín dụng.
- Hệ thống thông tin tín dụng ngày càng được hoàn thiện, đã thực hiện cung cấp các thông tin, chuyên đề phân tích về ngành thường xuyên cho Chi nhánh để tăng khả năng nắm bắt thông tin, sử dụng hiệu quả trong công tác thẩm định tín dụng.
- BIDV Bắc Quảng Bình đang kiên quyết thực hiện các giải pháp đồng bộ để giảm nợ xấu, thực hiện kiểm soát tín dụng chặt chẽ, chú trọng đến chất lượng hơn là tăng trưởng dư nợ.
- Chi nhánh đã xây dựng và dần hoàn thiện các công cụ đo lường tín dụng góp phần hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng, áp dụng các quy trình về chấm điểm và xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm đánh giá đúng tình trạng của khách hàng.
2.3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
- Về quy trình tín dụng
+ Việc phân tách Phòng tín dụng thành Phòng QHKH, Phòng Quản lý rủi ro và Phòng QTTD tại Chi nhánh theo các quy trình tín dụng đã kéo dài thời gian cấp tín dụng và nhiều thủ tục giấy tờ tạo nên tâm lý không thoải mái đối với khách hàng vay vốn, gây ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng và cơ hội kinh doanh của khách hàng vì phải qua nhiều bộ phận, nhiều thủ tục giấy tờ rườm rà, ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh.
+ Cơ chế thông tin giữa các Phòng trong hoạt động cấp tín dụng chưa đảm bảo tính liên tục và toàn diện. Mô hình TA2 mới được đưa vào sử dụng nên sự liên kết giữa các Phòng vẫn còn thiếu sự chặt chẽ, thiếu kết nối và chưa phân định rõ trách nhiệm rõ ràng nên khả năng phát hiện, ngăn ngừa rủi ro không cao.
Sự tuân thủ quy trình tín dụng của BIDV Bắc Quảng Bình có những thời điểm chưa nghiêm và thiếu thận trọng. Vẫn tồn tại môt số khoản tín dụng bị phê duyệt một cách vội vàng, chạy theo yêu cầu của khách hàng và được chỉ định của cấp phê duyệt từ trên xuống mà thiếu đi sự phân tích, thẩm định tín dụng của cán bộ quản trị khoản vay. Việc cấp tín dụng mang tính cảm tính, không dựa vào quá trình thu thập thông tin, phân tích và xử lý thiếu thận trọng và chính xác. Quá trình giải ngân và giám sát sau khi cho vay còn chưa chặt chẽ. Tất cả những điều đó đã làm cho khả năng phòng ngừa, chống đỡ RRTD của BIDV Bắc Quảng Bình còn những hạn chế cần phải khắc phục.
- Về danh mục đầu tư
Hiện nay danh mục đầu tư của chi nhánh còn tập trung vào các doanh nghiệp lớn, các ngành kinh tế dễ bị ảnh hưởng bởi các cuộc suy thoái kinh tế; Mặc dù đã có định hướng phát triển đối với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay thể nhân nhưng do chỉ đạo chưa quyết liệt nên tỷ trọng đầu tư tín dụng đối với khu vực này còn thấp. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác quản trị rủi ro.
- Chạy theo kế hoạch và chỉ tiêu
Do áp lực phải hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch giao hàng năm. Chi nhánh và cán bộ đôi khi chưa thật sự quan tâm đến chất lượng tín dụng. Hạ các điều kiện để
cho vay, để giữ khách hàng, lôi kéo khách hàng. Cho vay tín chấp, hạ lãi suất, thủ tục không đầy đủ. Sự buông lỏng này lại là yếu tố tạo ra rủi ro cho ngân hàng.
- Về nguồn nhân lực
+ Lực lượng cán bộ làm công tác tín dụng còn ít kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, cũng như bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, khả năng hạn chế TRTD sẽ rất khó khăn.
+ Cán bộ tín dụng chưa được chuyên môn hoá tức là mỗi cán bộ tín dụng sẽ chịu trách nhiệm phụ trách việc phân tích một hoặc một số loại hình doanh nghiệp, một số ngành nghề kinh doanh hoặc một bước trong quy trình thẩm định, sự phân công cán bộ tín dụng chưa thực sự phù hợp. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới thời gian và hiệu quả của công việc.
+ Mặc dù, trình độ của cán bộ tín dụng đã được nâng lên nhiều, tuy nhiên không phải cán bộ nào cũng có khả năng phán đoán và có cách nhìn toàn diện về hiệu quả thực tế, tính khả thi của dự án vay vốn của khách hàng. Vẫn tồn tại cán bộ tín dụng chưa đủ khả năng thực hiện công tác tư vấn cho khách hàng mà chỉ thực hiện công việc một cách máy móc.
- Công tác xếp hạng doanh nghiệp trong quá trình cấp tín dụng
Chi nhánh đã thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế, đặc điểm kinh doanh của NHTM theo tinh thần Quyết định 493 của Thống đốc NHNN. Đây là một bước tiến ban đầu trong tiếp cận an toàn vốn, không chỉ nhằm mục đích phân loại nợ, mà còn nhằm đánh giá rủi ro khoản vay, quản trị chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, Vẫn tồn tại một số trường hợp CBTD chưa đánh giá đúng được tình trạng của khách hàng. Việc định hạng tín dụng vẫn mang tính chủ quan, hời hợt. Việc thẩm định khách hàng chưa chính xác. Có khi CBTD cố ý nâng hạng cho khách hàng để họ được hưởng chính sách khách hàng, cũng có khi do sức ép từ phía khách hàng, vì cạnh tranh để giữ khách hàng nên CBTD buộc phải đánh giá khách hàng cao hơn. Điều đó dẫn đến nhóm nợ thiếu chính xác.
- Hạn chế về việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng.
Việc tính toán để lập quỹ dự phòng RRTD chủ yếu dựa vào công tác phân loại nợ và đánh giá thực trạng TSĐB. Việc định hạng doanh nghiệp thiếu chính xác đẫn đến việc tính toán trích lập và sử dụng quỹ DPRRTD cũng không chính xác theo. Việc sử dụng quỹ DPRRTD cũng khó khăn bởi quy định của NHNN rất nghiêm ngặt, đòi hỏi nhiều thủ tục và tài liệu, trong khi đó khách hàng có nợ xấu phải xử lý bằng quỹ DPRR thường là khách hàng hoạt động không bài bản, mang nặng tính gia đình, chưa theo đúng chuẩn mực nên việc đáp ứng các điều kiện trên rất khó. Mặt khác việc xử lý rủi ro hoàn toàn do HĐXLRR TW quy định, thủ tục phải qua nhiều cấp tạo tâm lý e ngại làm hồ sơ giải quyết cho khách hàng. Việc trích lập dự phòng RRTD quá cao sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Chi nhánh, lợi nhuận bị giảm sút.
- Hạn chế về Công tác quản lý tài sản bảo đảm của khách hàng.
Doanh nghiệp có TSBĐ tại ngân hàng ngày một tăng lên, tuy nhiên xét theo từng đối tượng khách hàng thì chỉ có khách hàng bán lẻ là có đủ TSBĐ, vì quy mô của những khách hàng bán lẻ nhỏ, nhu cầu vay vốn thấp phù hợp với giá trị tài sản họ đang hiện có. Đối với doanh nghiệp có quy mô vừa trở lên, vấn đề TSBĐ để vay vốn ngân hàng là một thực trạng khó khăn. Giá trị tài sản của doanh nghiệp thường nhỏ hơn rất nhiều so với nhu cầu vay vốn, trong khi đó giá trị tài sản đó lại giảm hàng năm do trích khấu hao. Có những doanh nghiệp huy động cả tài sản của Ban lãnh đạo, của cán bộ nhân viên để đưa vào thế chấp bão lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nhưng bản thân những người trong gia đình không thống nhất, vẫn còn tâm lý e ngại việc thế chấp nhà cửa cho ngân hàng, mặt khác họ chưa thực sự tin tưởng vào tính hiệu quả của doanh nghiệp trong SXKD, do đó tỷ lệ dư nợ có TSĐB thấp.
Đối với tài sản hình thành từ vốn vay, tại thời điểm vay chưa có TSĐB. Sau một thời gian tài sản mới hình thành và đưa vào thế chấp. Trong trường hợp rủi ro do nhiều nguyên nhân mà dự án không hình thành được thì khoản vay của khách hàng coi như không có TSBĐ, nguy cơ rủi ro rất cao. Với những TSBĐ là máy móc, thiết bị, xe cộ là những tài sản đang tham gia sản xuất tại các công trường, ngân hàng không theo dõi quản lý sát sao được thì tính rủi ro do hư hỏng dẫn đến
giảm giá trị của TSBĐ. Có những trường hợp khách hàng cố ý lừa đảo, giả mạo chữa ký và làm giấy tờ giả để cầm cố tài sản, khách hàng không có thiện chí phối hợp với ngân hàng để xử lý TSBĐ, khách hàng bỏ trốn, hành hung cán bộ tín dụng...dễ gây rủi ro lớn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng.
- Hạn chế trong phân cấp thẩm quyền phán quyết tín dụng: Hiện nay việc phân cấp thẩm quyển phán quyết tín dụng đối với chi nhánh còn thấp, giới hạn tín dụng bao gồm cả cho vay và bảo lãnh nên đối với một số doanh nghiệp vượt mức uỷ quyền phán quyết của chi nhánh thì phải trình Trung ương phê duyệt, điều đó kéo dài thời gian quyết định hồ sơ cho vay, không ít lần đã bỏ lỡ cơ hội của khách hàng do thủ tục vay vốn qua nhiều khâu tư Chi nhánh lên Trung ương.
Nguyên nhân của những hạn chế
- Môi trường kinh tế vĩ mô: Sự biến động về giá cả, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao… không chỉ tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn tác động tới hoạt động của ngành Ngân hàng.
- Môi trường pháp lý: Văn bản pháp lý hiện nay vẫn chưa đạt được một tiêu chuẩn mà xã hội mong muốn, các văn bản quy định ban hành chống chéo, “lấn sân” lẫn nhau, nhiều bất cập không đồng bộ chưa phù hợp với thực tế, làm cho người áp dụng phải lúng túng, việc xử lý các vấn đề chậm trễ, tạo kẽ hở cho các doanh nghiệp vi phạm quy định. Điều này làm cho ngân hàng rất khó có thể dự đoán và phòng tránh rủi ro.
- Bộ máy quản trị rủi ro:
BIDV đã xây dựng bộ máy xử lý rủi ro (bộ máy cho vay, quy trình xử lý nợ, quy định xử lý rủi ro), tuy nhiên hoạt động chưa thật sự hiệu quả và đồng bộ.
Mô hình TA2 tách bạch các khâu trong cấp tín dụng đối với khách hàng, theo đó lãnh đạo cũng phải tách bạch theo. Lãnh đạo QHKH phải độc lập, không được phụ trách khối QLRR và khối tác nghiệp, do đó trong trường hợp một trong các lãnh đạo đi vắng nếu không bố trí đươc lãnh đạo thay thế thì sẽ gây ách tắc trong quá trình cấp tín dụng. Thẩm quyền phấn quyết tín dụng đối với Chi nhánh còn thấp, điều đó tạo nên tính e ngại và hạn chế tính chủ động của cán bộ QHKH tại Chi
nhánh và việc trình cấp trung ương phê duyệt kéo dài thời gian cấp tín dụng, ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của khách hàng cũng như khả năng cạnh tranh của Chi nhánh là rất lớn.
- Trình độ chuyên môn và năng lực cán bộ tín dụng còn hạn chế:
Hiện nay, hầu hết cán bộ làm công tác tín dụng tuổi đời còn trẻ, dưới 30 tuổi, phần lớn công tác trong lĩnh vực tín dụng từ 1 – 3 năm nên kinh nghiệm còn hạn chế, kiến thức chưa vững vàng, cán bộ chưa được đào đạo đầy đủ để nhận biết rủi ro tín dụng. Vì cán bộ trẻ mới về nên ban lãnh đạo chưa nắm hết được hết khả năng cũng như năng lực của mỗi cán bộ để có sự phân công cho phù hợp. Bên cạnh đó, Một số cán bộ chưa thực sự tâm huyết, có trách nhiệm với công việc được giao, chưa nắm vững các quy định hiện hành trong hoạt động tín dụng. Vì vậy,việc không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, cũng như kiến thức thực tế về thị trường hiện đại cho đội ngũ cán bộ là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của BIDV Bắc Quảng Bình. Do vậy, chi nhánh phải có những biện pháp kịp thời để khắc phục những hạn chế này.
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa hiệu quả và không thường xuyên.
Trong thời gian quan, công tác kiểm tra nội bộ tại Chi nhánh còn sơ xài, vì số lượng khoản vay phát sinh quá nhiều trong khi lực lượng cán bộ kiểm tra viên còn hạn chế nên họ chỉ kiểm tra những món vay lớn mà bỏ qua những món vay nhỏ. Bên cạnh đó một số kiểm tra viên còn yếu về kỹ năng, kỹ thuật nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm nên chỉ phát hiện được một số sai phạm đơn giản, kiểm tra chủ yếu xoay quanh việc xem xét tính hợp lý hợp pháp của hồ sơ. Do đó thời gian qua BIDV Bắc Quảng Bình chưa phát hiện hết các sai phạm sau cho vay để có biện pháp chấn chỉnh và xử lý kịp thời.
- Thông tin không đầy đủ:
Thông tin là một trong những yếu tố quan trọng trong việc ra quyết định trong cho vay. Tuy nhiên, những thông tin làm cơ sở để thẩm định và quyết định cho vay ở BIDV Bắc Quảng Bình hiện nay vẫn còn thiếu, chất lượng chưa cao, kể cả thông tin về khách hàng vay, thông tin về mục đích vay vốn, phương án trả nợ,
TSBĐ… cũng như thông tin thị trường và thông tin về cơ chế, chính sách của Nhà nước. Hiện nay, chất lượng thông tin chủ yếu do CIC cung cấp, tuy nhiên thông tín được cung cấp qua CIC có độ tin cây chưa cao, chỉ mang tính tham khảo. Vì vậy việc tìm hiểu thông tín qua kênh này chưa phản ánh đầy đủ chính xác. Nguyên nhân là vì thông tin của CIC phần lớn do các tổ chức tín dụng cung cấp, thông tin thường bị phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa chấp hành tốt pháp lệnh về Kế toán - Thống kê, bên cạnh đó, thông tin thường không đầy đủ, kịp thời thường bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía các tổ chức tín dụng, chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, thiếu tinh thần hợp tác, chia sẻ với nhau thông tin quan trọng về một khách hàng, nhằm để đảm bảo quyền lợi riêng hoặc vì mục đích không lành mạnh. Mặt khác, do CIC mới thành lập và đi vào hoạt động không lâu nên bản thân còn nhiều hạn chế về công nghệ, phương pháp thu thập, xử lý thông tin, trình độ cán bộ,…
- Tính trung thực của các báo cáo tài chính và hồ sơ vay vốn của khách hàng Thực tế hiện này, chỉ có các báo cáo tài chính của những khách hàng có quy
mô hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hoặc những doanh nghiệp Nhà nước là có độ tin cậy, cho nội dung đầy đủ, chi tiết do hoạt động của những loạt hình này được quản trị khá chặt chẽ bởi một hệ thống các quy chế quản trị tài chính của Nhà nước, bên cạnh đó các khách hàng này cũng thực hiện tương đối đầy đủ các quy định về kế toán, tài chính. Tuy nhiên đối tượng khách hàng mục tiêu hướng tới lại là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhưng hiện nay cơ chế tài chính quy định đối với các loại hình doanh nghiệp này còn khá lỏng lẻo, việc thực hiện các quy định về hạch toán, kế toán của doanh nghiệp chưa đầy đủ, chính xác. Các khách hàng thường nộp cho chi nhánh các báo cáo tài chính sao cho phản ánh một cách có lợi nhất cho mục đích tín dụng và giao dịch với chi nhánh. Thường là thu nhập trước thuế đưa xuống thấp để giảm số thuế phải nộp hoặc giảm một số chỉ tiêu khác trong Bảng cân đối kế toán. Vấn đề này sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng công tác phân tích đánh giá khách hàng nói chung và phân tích tài chính doanh nghiệp nói riêng. Để có thể đánh giá khách hàng, chi nhánh cần có những thông tin