Thứ hai, thị trường tài chính của Việt Nam còn phát triển chưa đồng đều.
Sự kém phát triển của thị trường tài chính Việt Nam nằm ở sự chậm phát triển của thị trường vốn. Điều này đã tạo ra áp lực cho hệ thống ngân hàng Việt Nam khi vừa chịu gánh nặng cho vay ra nền kinh tế vừa khó huy động vốn nhàn rỗi khi cần thiết trên các thị trường khác với chi phí thấp hơn thị trường liên ngân hàng.
Thứ ba, kinh tế vĩ mô vẫn còn nhiều bất ổn.
Sự bất ổn của môi trường kinh tế vĩ mô ở Việt Nam có thể được nhìn nhận thông qua các vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt như thâm hụt ngân sách, nợ công, nợ xấu, thị trường ngoại hối, vàng biến động, lãi suất.
Bảng 2.28: Diễn biến thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam (%)
2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | 2016 | |
Thâm hụt ngân sách | 5,5 | 5,36 | 6,6 | 4,4 | 6,1 | 5,64 |
Nợ công so GDP | 54,9 | 55,4 | 54,2 | 60,3 | 62,2 | 64,73 |
Có thể bạn quan tâm!
- Khuôn Khổ Pháp Lý Và Mô Hình Tổ Chức Quản Trị Rủi Ro Thanh Khoản Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Chiến Lược Quản Trị Rủi Ro Thanh Khoản Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Nhân Tố Tác Động Đến Rủi Ro Thanh Khoản Của Agribank
- Đa Dạng Hóa Hoạt Động Huy Động Vốn, Tăng Tính Ổn Định Của Nguồn Vốn
- Nhóm Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Thanh Khoản
- Nhóm Giải Pháp Hỗ Trợ Nâng Cao Khả Năng Quản Trị Rủi Ro Thanh Khoản
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Nguồn: [133]
Thâm hụt ngân sách kéo dài khiến các nguy cơ lạm phát kỳ vọng luôn tiềm ẩn và điều này cũng khiến các NHTM rất khó khăn trong công tác huy động nguồn tiền tiết kiệm trong nền kinh tế - đây là một nguồn cung thanh khoản quan trọng của các NHTM. Đối với vấn đề nợ công, nợ công gia tăng cũng có nghĩa là tín dụng Nhà nước ngày càng tăng lên thông qua kênh phát hành trái phiếu Chính phủ. Điều này sẽ khiến lãi suất tín dụng trên thị trường tăng lên do cung tín dụng không thay đổi trong khi cầu tín dụng tăng chủ yếu do nhu cầu vay vốn của Chính phủ tăng. Khi lãi suất tín dụng tăng lên sẽ gây ra hệ quả là các NHTM khó huy động vốn do nguồn tiền tiết kiệm chảy vào thị trường trái phiếu Chính phủ.
Ngoài thâm hụt ngân sách và nợ công, những tác động bất thường của môi trường trong nước và quốc tế cũng như tâm lý kỳ vọng còn khá lớn trong dân chúng nên lạm phát của Việt Nam cũng có những diễn biến rất phức tạp6.
6 Cần lưu ý là cách tính chỉ số CPI của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa phản ánh đúng thực trạng diễn biến lạm phát của Việt Nam những năm qua, chủ yêu do cách xác định rổ hàng hóa dịch vụ chưa chính xác với nhóm hàng lương thực thực phẩm chiếm tới 42,5% trong rổ hàng để tính nên những biến động của nhóm hàng hóa này sẽ tác động rất mạnh đến chỉ số CPI của Việt Nam. Do vậy, một vài năm trở lại đây, mặc dù chỉ số CPI của Việt Nam khá thấp (Bảng 2.20), nhưng các nguy cơ lạm phát tiềm ẩn vẫn rất cao xuất phát từ môi trường gây lạm phát còn diễn biến phức tạp.
Bảng 2.29: Diễn biến chỉ số CPI của Việt Nam
2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | 2016 | |
CPI (%) | 18,13 | 6,81 | 6,04 | 2,84 | 0,65 | 4,74 |
Nguồn: [133]
Lãi suất huy động vốn thời gian qua tại hầu hết các NHTM đang có dấu hiệu tăng phần nào phản ánh kỳ vọng về lạm phát của công chúng. Hơn nữa, một khi nợ xấu chưa được giải quyết triệt để thì áp lực tăng lãi suất vẫn là hiện hữu trong hệ thống ngân hàng. Như vậy, các áp lực tăng lãi suất trong tương lai vẫn rất lớn nếu như NHNN không có các giải pháp kiểm soát thị trường hiệu quả và khi đó, các nguy cơ RRTK tiềm ẩn vẫn hiện hữu đối với hệ thống NHTM Việt Nam nói chung, trong đó đặc biệt đối với Agribank bởi dù sao thì ngân hàng vẫn phải thực thi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ với lãi suất chủ yếu mang tính chính sách trong khi lại phải huy động vốn theo điều kiện thị trường.
Thứ tư, sự cạnh tranh lớn trong hệ thống các TCTD tại Việt Nam.
Tính đến thời điểm hiện nay, quy mô nền kinh tế Việt Nam chỉ khoảng trên 200 tỷ USD với trên 90 triệu dân, nhưng có tới 4 NHTMNN, 3 ngân hàng trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, 28 NHTMCP, 8 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 2 ngân hàng liên doanh, 51 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngoài ra còn có các Quỹ Tín dụng Nhân dân, các Công ty tài chính và cho thuê tài chính... Điều này khiến tại thị trường Việt Nam đã và đang tiếp tục có sự cạnh tranh rất gay gắt, quyết liệt giữa các TCTD và phi tín dụng trong huy động vốn, điều này đã và đang tiếp tục gây các áp lực lên lãi suất và năng lực thanh khoản của toàn bộ hệ thống ngân hàng trong nước nói riêng và các định chế tài chính nói chung.
Thứ năm, công tác thanh tra, giám sát của NHNN còn nhiều hạn chế.
Sự hạn chế của hoạt động thanh tra giám sát của NHNN được thể hiện trên một số nội dung sau đây: (i) Nội dung thanh tra giám sát còn nặng về số liệu thống kê, chưa xây dựng được các chỉ tiêu hợp lý nhằm đánh giá và xếp loại chính xác ngân hàng theo chuẩn mức quốc tế; (ii) Hoạt động thanh tra còn măng nặng tính chất kiểm tra, xử lý những vi phạm quy chế, theo từng vụ việc; (iii) Kết quả thanh
tra chưa mang tính cảnh báo đối với các TCTD, nhất là các cảnh báo các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn. Việc hạn chế trong công tác thanh tra, giám sát khiến các ngân hàng nói chung và Agribank nói riêng dễ rơi vào tình trạng rủi ro, trong đó có RRTK, đặc biệt là động lực hay “ý thức” về quản trị RRTK sẽ không được nâng cao đúng mức.
Thứ sáu, hệ thống thông tin thiếu minh bạch.
Hiện nay tại Việt Nam, ngoài trung tâm CIC và Phòng thông tin của ngân hàng, thì chưa có tổ chức nào khác cung cấp thông tin có chất lượng về khách hàng, điều này khiến các NHTM Việt Nam nói chung, trong đó có Agribank, thiếu nguồn thông tin để kiểm chứng. Hơn nữa, hệ thống thông tin do CIC cung cấp còn có những hạn chế nhất định, trong một số trường hợp còn chưa đáp ứng được yêu cầu về thông tin chi tiết cho việc đánh giá khách hàng của NHTM.
Thứ bảy, tâm lý khách hàng của Việt Nam chưa ổn định, cách ứng xử theo kiểu “đám đông”.
Tâm lý công chúng đóng vai trò quan trọng trong quản trị RRTK. Đối với Việt Nam, hiệu ứng tâm lý “đám đông” là đặc điểm có thể dùng để mô tả đối với công chúng. Điều này đã và đang tiếp tục là nguyên nhân khiến RRTK của các ngân hàng luôn bị đe dọa. Tuy đã có sự tồn tại của Luật Bảo hiểm tiền gửi cùng việc nâng hạn mức chi trả bảo hiểm lên 75 triệu đồng trên 1 tài khoản nhưng điều này cũng chưa thể giúp tâm lý khách hàng cải thiện nhanh được. Gần đây, Quốc hội lại thông qua việc khi ngân hàng bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt, ngân hàng có thể bị phá sản. Điều này có thể ảnh hưởng lớn tới người gửi tiền khi việc lựa chọn ngân hàng chất lượng hoạt động tốt, thông tin minh bạch cao sẽ tốt hơn là gửi tiền tại ngân hàng trả lãi suất cao.
2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, ngân hàng chưa thực sự chú trọng công tác quản trị RRTK.
Mặc dù đã ý thức được những hậu quả tiêu cực của RRTK, song trong thực tiễn, Agribank vẫn chưa thực sự chú trọng đúng mức đối với công tác này. Thể hiện ở chỗ về mặt chính sách, quy trình mặc dù ngân hàng đã ban hành Quyết định số 2140 để quản trị RRTK, tuy nhiên Quyết định này vẫn chưa được thực hiện một
cách đầy đủ trên thực tế. Do vậy, hoạt động quản RRTK tại ngân hàng trên cấp độ toàn hệ thống vẫn chưa được thực hiện một cách triệt để. Sự chưa chú trọng tới công tác quản trị RRTK của Agribank còn thể hiện ở điểm ngân hàng chưa thiết lập bộ phận quản trị RRTK riêng biệt. Quản trị RRTK là một hoạt động phức tạp, có tính chuyên nghiệp rất cao, song hiện Agribank vẫn chưa thành lập một bộ máy riêng biệt để quản trị RRTK, dẫn tới hiệu quả công tác quản trị RRTK chưa đáp ứng được kỳ vọng đặt ra. Trong điều kiện quy mô các Chi nhánh và Phòng Giao dịch lớn, bao trùm khắp cả nước, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng đa dạng, phức tạp, với số lượng khách hàng ngày càng tăng lên, đối tượng khách hàng ngày càng đa dạng, các dịch vụ ngân hàng do ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế - xã hội rất lớn và rất phức tạp… thì nguy cơ RRTK càng diện biến phức tạp, khó kiểm soát. Chính vì thế, việc chưa hình thành một bộ máy quản trị RRTK độc lập sẽ khiến ngân hàng luôn phải đối mặt với nguy cơ RRTK tiềm ẩn lớn, khó nhận diện và kiểm soát, đe dọa sự an toàn bền vững trong hoạt động kinh doanh của Agribank cả ở hiện tại và tương lai. Điều này được thể hiện rõ trong thực tiễn ở một số thời điểm nhất định ngân hàng đã chịu sức ép thanh khoản rất lớn.
Chiến lược quản trị RRTK còn mang tính chất bao quát, báo cáo phục vụ quản trị thanh khoản chủ yếu là ngắn hạn, thiếu các báo cáo phân tích dài hạn phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Các tiêu chí, giả định để lập báo cáo khe hở thanh khoản mới dựa trên các quy định từ phái NHNN, chưa dựa trên các tiêu chí và giả định nội bộ Agribank, do vậy, chưa có cơ chế riêng trong dự báo dòng tiền trong tương lai.
Thứ hai, hệ thống thông tin quản trị điều hành nói chung, trong đó đặc biệt là thông tin quản trị RRTK còn nhiều bất cập.
Mặc dù Agribank đã đề ra quy trình về quản trị RRTK thông qua các yêu cầu bắt buộc về lập và trình các báo cáo hàng ngày và định kỳ lên Hội đồng thành viên và Ban Điều hành, chế độ báo cáo hiện tại của Agribank vẫn chưa cung cấp đầy đủ thông tin cho Hội đồng thành viên và Ban Điều hành các báo cáo định kỳ để hỗ trợ Hội đồng thành viên và Ban Điều hành hiểu rõ hồ sơ thanh khoản của ngân hàng, từ
đó làm cơ sở để quyết định liên quan tới vấn đề RRTK. Tuy hệ thống IPCAS đã được triển khai, song các quy định quản lý hạn mức điều chuyển vốn còn nhiều hạn chế, với các chế tài phạt vi phạm hạn mức dư nợ, dư có chưa đủ mạnh (150% tỷ lệ phí điều chuyển vốn), dẫn tới việc vượt hạn mức xảy ra ở nhiều chi nhánh, gây áp lực thanh khoản rất lớn cho toàn hệ thống.
Thứ ba, quy trình quản trị RRTK của Agribank còn bất cập.
Sự bất cập trong quy trình quản trị RRTK tại Agribank được thể ở bảy nội dung như sau:
(i) Ngân hàng đã có quy định về vai trò và trách nhiệm của Hội đồng thành viên và Ban Điều hành về việc giám sát rủi ro toàn hệ thống trong Điều lệ Tổ chức và Hoạt động của Agribank. Tuy nhiên, các vai trò và trách nhiệm này chưa được nêu trong một chính sách quản trị rủi ro chính thức.
(ii) Agribank đã thành lập hoặc có chủ trương thành lập một số Ủy ban/Hội đồng hỗ trợ cho Hội đồng thành viên và Ban Điều hành thực hiện chức năng giám sát rủi ro, tuy nhiên còn nhiều hạn chế trong việc vận hành. Ủy ban quản lý rủi ro hiện chưa bao quát các rủi ro khác (trong đó có RRTK) ngoài RRTD.
(iii) Việc giám sát rủi ro của Hội đồng thành viên và Ban Điều hành chưa hiệu quả do chưa có cơ chế trao đổi thông tin nội bộ và cơ chế chia sẻ thông tin giữa bộ phận kiểm toán nội bộ, bộ phân kiểm soát nội bộ với Trung tâm Phòng ngừa và Xử lý rủi ro và các bộ phận khác như: Ban Pháp chế, Ban Kế toán Ngân quỹ.
(iv) Vai trò và trách nhiệm của bộ phận Kiểm toán nội bộ chưa được xác định rõ ràng và quy định bằng văn bản về việc thực hiện rà soát độc lập tính hiệu quả của khung quản trị rủi ro.
(v) Cơ cấu tổ chức của Trung tâm Phòng ngừa và Xử lý rủi ro chưa bao gồm các đơn vị chuyên biệt đối với rủi ro hoạt động, RRTK, rủi ro thị trường…
(vi) Tại một số chi nhánh còn thiếu sự phân tách trách nhiệm giữa chức năng quản lý rủi ro và chức năng kinh doanh.
(vii) Ngân hàng chưa ban hành văn bản chính thức quy định vai trò và trách nhiệm liên quan tới quản trị rủi ro của các bộ phận kinh doanh.
Thứ tư, sự chủ quan, ỷ lại vào cơ chế của Nhà nước.
Sự chủ quan và ỷ lại vào cơ chế Nhà nươc khi Agribank vẫn là NHTM 100% vốn Nhà nước đã tác động đến việc Agribank chưa chú trọng đúng mức tới công tác nghiên cứu dự báo những diễn biến của kinh tế vĩ mô, xu thế biến động của thị trường, các nhân tố tác động đến cung – cầu về thanh khoản. Minh chứng rõ nhất cho vấn đề này là ở giai đoạn 2009-2011, Agribank đã triển khai sản phẩm huy động tiết kiệm bậc thang với lãi suất cao với thời hạn gửi dài. Sự biến động lãi suất giảm dần sau đó đã khiến Agribank phải chịu chi phí rất cao cho những sản phẩm này và kết quả là Agribank đã phải hủy bỏ sản phẩm này. Chính việc huy động vốn qua triển khai sản phẩm tiết kiệm bậc thang với lãi suất cao cho thấy sự thiếu cẩn trọng của Agribank trong việc phân tích, đánh giá kỹ thị trường trước khi đưa sản phẩm vào thực tiễn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 của Luận án đã tập trung đề cập phân tích và làm rõ thực trạng RRTK của Agribank chủ yếu trong giai đoạn 2011-2016. Những năm qua, Agribank đang phải đối mặt với các RRTK tiềm ẩn lớn khi ngân hàng đã có cơ cấu tín dụng rủi ro cao và chưa tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tiềm ẩn RRTK của Agribank cũng đã được Luận án đánh giá phân tích thông qua mô hình kinh tế lượng. Luận án đã phân tích và làm rõ thực trạng quản trị RRTK tại Agribank trong giai đoạn 2011-2016 thông qua việc xem xét mô hình quản trị rủi ro thanh khoản, các quy định và quy trình quản trị, đánh giá các tỷ số phản ánh năng lực thanh khoản trong giai đoạn khảo sát để chỉ ra mức độ cải thiện tình hình thanh khoản trong ngân hàng. Từ việc phân tích thực tiễn, đã chỉ ra các kết quả đã đạt được, một số tồn tại cũng như nguyên nhân của những tồn tại trong công tác quản trị RRTK tại Agribank. Các hạn chế và nguyên nhân hạn chế sẽ là cơ sở để Luận án đưa ra các giải pháp và kiến nghị phù hợp trong chương 3.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
3.1.1. Định hướng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
Mục tiêu tổng quát trong hoạt động kinh doanh của Agribank giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 tập trung vào:
(i) Phát huy vị thế của một NHTM hàng đầu tại Việt Nam, thực sự trở thành một NHTM chủ đạo và chủ lực trong vai trò cung cấp tín dụng cũng như các dịch vụ phi tín dụng khác đáp ứng nhu cầu về tài chính cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phù hợp với các chính sách, mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã được hoạch định;
(ii) Mở rộng hoạt động kinh doanh một cách an toàn, bền vững;
(iii) Từng bước áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại để qua đó triển khai và mở rộng việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiện ích đến mọi loại hình doanh nghiệp và dân chúng ở các trung tâm kinh tế nông thôn và đô thị, qua đó phát huy các lợi thế của ngân hàng là có mạng lưới chi nhánh bao trùm khắp cả nước;
(iv) Duy trì và nâng cao khả năng sinh lời trong kinh doanh thông qua việc đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng, tăng cường chú trọng vấn đề an toàn kinh doanh, tiết giảm chi phí hoạt động thông qua sắp xếp và chấn chỉnh lại mạng lưới các Chi nhánh, Phòng giao dịch;
(v) Chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong toàn hệ thống - coi đây là một trong những nhân tố có tính quyết định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh
trong quá trình hội nhập ngân hàng, duy trì và nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng những năm tới.
Các mục tiêu phấn đấu là:
- Giữ vững và củng có vị thế chủ đạo và chủ lực trên thị trường tài chính khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn;
- Đảm bảo tỷ lệ an toàn tối thiểu theo quy định, tiến tới bảo đảm sự an toàn bền vững trong kinh doanh. Trước mắt sẽ tập trung thực thi các cam kết về xử lý nợ xấu, cải thiện chất lượng tài sản, có cơ chế linh hoạt tăng vốn điều lệ;
- Tiếp tục hoàn thiện và phát huy tác dụng của hệ thống Quản trị Rủi ro toàn diện, hướng tới một quy trình quản trị rủi ro theo chuẩn quốc tế nhằm phát triển an toàn và bền vững;
- Đẩy nhanh tiến độ áp dnụg công nghệ thông tin, tiếp tục đầu tư để nâng cấp cơ sở hậ tầng công nghệ ngân hàng, xây dựng và triển khai hệ thống thông tin quản trị trên nền tẳng của hệ thống kế toán theo chuẩn quốc tế, tăng hiệu quả quản trị điều hành trong hệ thống Agribank;
- Từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và điều hành nhằm đưa Agribank trở thành một tỏ chức tài chính ngân hàng hiện đại theo chuẩn mực quốc tế, tăng năng lực cạnh tranh, lấy phục vụ khách hàng làm mục tiêu hoạt động;
- Nâng cao năng lực và hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động, củng cố và phát huy vai trò của công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ.
3.1.2. Định hướng trong quản trị rủi ro thanh khoản của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng trong công tác quản trị RRTK đối với sự an toàn bền vững trong kinh doanh ngân hàng, trong thời gian tới, Agribank đề ra các chủ trương lớn là:
(i) Từng bước hoàn thiện quy trình quản trị rủi ro nói chung, trong đó đặc biệt chú trọng hoạt động quản trị RRTK thông qua việc xây dựng khe hở thanh khoản và hồ sơ thanh khoản một cách trung thực, coi đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự an toàn bền vững trong kinh doanh của ngân hàng;