Nhân Tố Tác Động Đến Rủi Ro Thanh Khoản Của Agribank


yếu tố: (i) sự gia tăng tập trung trong danh mục tài sản hoặc nợ; (ii) so sánh tốc độ tăng của các khoản vay với tốc độ tăng của các khoản tiền gửi; (iii) kiểm tra chất lượng tín dụng của ngân hàng; (iv) đối chiếu chi phí tài trợ vốn so với thị trường;

(v) sự phụ thuộc vào các nguồn tài trợ vốn trên thị trường bán buôn.

2.3.3.2. Đo lường rủi ro thanh khoản

Sau khi nhận diện RRTK, Agribank triển khai các hoạt động sau để đo lường kịp thời về mức độ RRTK của ngân hàng để có giải pháp ứng phó phù hợp, đó là:

Xác định khe hở thanh khoản

Hiện tại, Agribank thực hiện việc lập báo cáo khe hở thanh khoản theo quy định của NHNN, đưa các phân tích hành vi vào trong Báo cáo khe hở thanh khoản, để từ đó có thể đánh giá hồ sơ thanh khoản và dự báo các dòng tiền trong tương lai (thay vì chỉ sử dụng các giả định của NHNN đưa ra). Bản phân tích hành vi bao gồm các sản phẩm/khoản mục nội hay ngoại bảng cân đối kế toán mà dòng tiền không xác định được chính xác, xây dựng các yêu cầu dữ liệu và phương pháp luận để tiến hành phân tích hành vi.

Giám sát thường xuyên tình hình huy động vốn

Agribank đã xây dựng các phương pháp đo lường thanh khoản dưới dạng các tỷ lệ tập trung để cung cấp một cái nhìn tổng quan về hồ sơ nguồn vốn huy động của ngân hàng, lập và giám sát các báo cáo về các tỷ lệ trên một cách định kỳ.

Kiểm soát diễn biến các tài sản thanh khoản

Ngoài các quy định của NHNN, Agribank đang tiến hành xây dựng riêng các chỉ số nội bộ và chốt kiểm soát để đảm bảo có thể duy trì liên tục các tài sản thanh khoản, sử dụng như “đệm thanh khoản” có thể nhanh chóng chuyển thành tiền trong trường hợp khẩn cấp. Mức độ tập trung vào các thành phần của tài sản thanh khoản cũng có thể được thiết lập để tránh tăng mức độ rủi ro thị trường và các rủi ro khác trong danh mục tài sản.


Xây dựng các dấu hiệu cảnh báo sớm

Agribank đang tiến hành xây dựng bộ chỉ số chính để qua đó có thể theo dõi định kỳ hàng tuần/hàng ngày để nhận diện RRTK phát sinh. Chỉ số cảnh báo sớm có thể được chia thành các chỉ số về khách hàng và các chỉ số về thị trường.

2.3.3.3. Nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của Agribank

Phân tích định lượng tại mô hình hồi quy trong phần 2.2.2 đã chỉ ra rằng RRTK của Agribank trong giai đoạn 2011-2016 chịu sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan lẫn khách quan. Các nhân tố tác động chủ yếu đến RRTK của ngân hàng được Luận án tổng hợp lại trong bảng dưới đây:

Bảng 2.27: Các nhân tố tác động đến RRTK của Agribank


Nhân tố

Tác động


Nguồn tài trợ thanh khoản từ bên ngoài

Các chi nhánh lớn của Agribank thường có sự tư tin thái quá khi cho rằng họ có thể thu hút dễ dàng nguồn vốn từ bên ngoài nhằm tài trợ cho yêu cầu thanh khoản và từ đó họ có xu hướng nắm giữ các tài sản thanh khoản ở mức thấp và tập trung tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tăng cường nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản thấp.

Điều này luôn gây tiềm ẩn RRTK cho Agribank.


Tỷ lệ cho vay khách hàng

Với hệ số hồi quy là 0,068 cho thấy rằng khi ngân hàng cho vay khách hàng càng cao thì RRTK càng lớn. Dữ liệu báo cáo tài chính cho thấy rằng dư nợ của Agribank gia tăng rất nhanh qua các năm. Với sự tập trung nguồn vố huy động trong hoạt động tín dụng như

vậy khiến RRTK của ngân hàng luôn tiềm ẩn rất cao.


Tăng trưởng GDP

Với hệ số hồi quy là -0,565% hàm ý rằng khi tăng trưởng GDP giảm xuống đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ tăng cường nắm giữ tài sản thanh khoản và ngược lại, khi tăng trưởng GDP tăng lên thì ngân hàng có xu hướng tăng cường giải phóng thanh khoản. Trong các năm 2010-2011 tăng trưởng GDP khá cao, đạt tới 6,78% vào năm 2010 nên ngân hàng có xu hướng tăng cường cho vay, nhưng sau đó, tăng trưởng GDP có xu hướng sụt giảm khá mạnh sau đó, thậm chí chỉ còn đạt 5,03% năm 2012 nên ngân hàng tăng cường nắm giữ tài sản thanh khoản, dư nợ tín dụng sụt giảm nhưng sau đó, cùng với xu hướng tăng trưởng GDP được cải thiện dần thì xu hướng tăng trưởng tín dụng của ngân hàng cũng được thể hiện rất

rõ, điều này cũng đồng nghĩa với RRTK tiềm ẩn tăng lên.


Lạm phát

Với hệ số hồi quy là 5,535% hàm ý rằng khi lạm phát tăng lên thì RRTK ở ngân hàng cũng gia tăng cùng chiều. Trong giai đoạn 2011-2016, lạm phát có xu hướng được kiểm soát tốt và sụt giảm khá mạnh: từ mức 18,58% năm 2011 đến năm 2015 chỉ còn ở mức 0,63%. Năm 2016 tuy có gia tăng khá mạnh, song cũng chỉ ở mức

4,74% do vậy sự tác động của lạm phát tới RRTK của ngân hàng trong giai đoạn này là không đáng kể.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 18



Nhân tố

Tác động


Hệ số ROE

Với hệ số hồi quy 1,636 hàm ý rằng ROE sẽ tác động tiêu cực đối với RRTK của ngân hàng. ROE của Agribank năm 2011 lên tới 26,81% - một tỷ lệ rất cao so với các NHTMNN khác cùng năm. Nhưng hệ số này có sự sụt giảm rất mạnh các năm sau đó trong khi các NHTMNN khác lại có xu hướng tăng khá mạnh hệ số ROE. Với việc duy trì hệ số ROE ở mức tương đối thấp trong giai đoạn sau 2011-2016, tác động của ROE tới RRTK của Agribank là

không đáng kể. Hay, việc chủ động giảm ROE, Agribank đã kiểm soát tốt RRTK những năm sau 2011 cho đến nay.

Nguồn: tính toán của tác giả

2.4. ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

2.4.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, mô hình tổ chức quản trị RRTK đã có những điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao chất lượng công tác quản trị.

Từ mô hình quản trị rủi ro phân tán theo từng chi nhánh với hệ thống thông tin phục vụ cho công tác phòng ngừa rủi ro chưa phát triển thì cuối năm 2012 việc quản trị RRTK theo mô hình hoàn toàn mới tại Hội sở chính với việc quy định rất chi tiết các nhiệm vụ cho từng Phòng/Ban chức năng và theo cấu trúc 3 tầng bảo vệ theo khuyến cáo của Basel. Hơn nữa, chiến lược quản trị RRTK cũng có sự thay đổi toàn diện theo hướng chú trọng nhiều hơn vào mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn huy động và quản lý chặt chẽ nguồn vốn trong toàn hệ thống để bảo đảm an toàn thanh khoản gắn với kiểm soát tăng trưởng tín dụng. Việc giám sát và báo cáo thanh khoản cũng đang từng bước được điều chỉnh theo hướng thiết lập các giới hạn/tiêu chuẩn nội bộ thay vì hoàn toàn tuân thủ các giới hạn quy định của NHNN.

Thứ hai, tuân thủ pháp luật và thông lệ quốc tế trong quản trị RRTK.

Do rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn diễn biến rất phức tạp mà một trong những nguyên nhân là do dịch vụ cung cấp đa dạng, phạm vi hoạt động rộng…nên tuân thủ pháp luật luôn là yếu cầu bắt buộc với tất cả các NHTM. Ý thức được yêu cầu này nên Agribank luôn tuân thủ hành lang pháp luật và các thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là tuân thủ các giới hạn do NHNN quy định. Mặc dù chưa có bộ phận riêng chuyên về theo dõi và quản trị


RRTK, nhưng những năm qua, công tác tổ chức và thực hiện các văn bản về đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh theo quy định của NHNN cũng tương đối rõ ràng, ít nhiều cũng đem lại hiệu quả trong công tác quản trị RRTK của ngân hàng, giúp Agribank chống đỡ thành công trước các tác động rất tiêu cực từ các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công Châu Âu thời gian qua mang đến cho ngân hàng. Việc chống đỡ thành công không chỉ được thể hiện ở việc mặc dù có những giai đoạn ngân hàng rất khó khăn trong giải quyết vấn đề thanh khoản phát sinh nhưng chưa phải cầu viện đến sự trợ giúp từ NHNN, mà còn được thể hiện ở việc ngân hàng xử lý các yêu cầu về thanh khoản phát sinh với chi phí hợp lý, qua đó, uy tín và thương hiệu của Agribank vẫn được duy trì và phát huy trên thị trường tài chính trong và ngoài nước.

Thứ ba, ngân hàng đã triển khai thành công dự án hiện đại hóa hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng (IPCAS), qua đó giúp xóa bỏ được tình trạng tồn tại rất nhiều hệ thống phền mềm cũ với công nghệ lạc hậu, rủi ro cao và rất khó kiểm soát.

Với phần mềm quản lý mới IPCAS giúp Agribank đạt được mục tiêu quan trọng là thống nhất toàn hệ thống về chương trình phần mềm và quy trình công nghệ, dữ liệu toàn quốc được xử lý tập trung, cho phép Hội sở chính cũng như các Chi nhánh khai thác số liệu trực tuyến hàng ngày phục vụ công tác quản trị, điều hành. Với việc triển khai trong thực tiễn Dự án Hiện đại hóa cung cấp hệ thống thông tin tập trung, mọi dữ liệu được cập nhật trực tuyến về Hội sở chính, qua đó, mọi sản phẩm của Agribank đưa ra thị trường đều được quản lý tập trung tại Hội sở chính, tạo thuận lợi trong việc xây dựng các chương trình công nghệ phục vụ công tác quản trị rủi ro nói chung, trong đó đặc biệt là quản trị RRTK trong điều kiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng đa dạng và rất phức tạp về quy mô thị trường và chủng loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng trên thị trường. Thông qua hệ thống này, việc cân đối nguồn vốn trong toàn hệ thống sẽ diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác huy động và sử dụng nguồn vốn cũng như tạo thuận lợi cho hoạt động quản trị RRTK của ngân hàng.


Thứ tư, huy động nguồn vốn đã được chú trọng nhằm bảo đảm nguồn cung thanh khoản.

Mặc dù những năm gần đây, nhất là những năm trước 2012, thị trường tài chính trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp, sự cạnh tranh giữa các TCTD trong nước quá nóng dẫn tới những rủi ro tiềm ẩn trên thị trường tài chính trong nước thời gian này là đặc biệt cao, gây rất nhiều khó khăn trở ngại cho hoạt động tín dụng, nhất là trong công tác huy động vốn (một nguồn cung thanh khoản có tính chất quyết định cho các TCTD). Mặc dù vậy, với sự nỗ lực của từng cán bộ ngân hàng đặc biệt là những quyết sách có tính chiến lược đúng đắn, nên nguồn vốn huy động của Agribank vẫn tăng trưởng tương đối ổn định qua các năm.

Thứ năm, hoạt động tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, nợ xấu từng bước

được xử lý, an toàn thanh khoản ngân hàng cũng vì thế được tạo lập và duy trì tốt.

Trước những nhu cầu về vốn tín dụng tăng rất nóng những năm gần đây, rất nhiều TCTD Việt Nam mở rộng cho vay và đầu tư quá mức khó kiểm soát, dẫn tới chất lượng tín dụng giảm thấp nghiêm trọng, các tiêu cực trong hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng. Các tư liệu thực tế cho thấy rằng các bất cập này cũng đã phát sinh tại Agribank. Với một thực tế là Agribank có mạng lưới các Chi nhánh và Phòng Giao dịch quá lớn để đáp ứng các nhu cầu về tín dụng của các khách hàng ngày càng cao, hơn nữa, các đối tượng khách hàng của Agribank cũng ngày càng đa dạng và phong phú, trong hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, nên những rủi ro là khó tránh khỏi, thậm chí còn khá tiêu cực, song nhìn về tổng thể thì dẫu sao Agribank cũng đã có những thành công nhất định, nhất là trong công tác quản trị RRTK, bởi vì trong điều kiện nợ xấu tại Agribank diễn biến phức tạp tất yếu sẽ đe dọa đến an toàn thanh khoản của ngân hàng, song ngân hàng vẫn hoạt động ổn định, nợ xấu đã và đang tiếp tục được kiểm soát hiệu quả, nhất là thời gian gần đây, với sự ra đời và hoạt động của VAMC đã giúp ngân hàng xử lý các khoản nợ xấu tồn đọng, càng giúp công tác quản trị RRTK của ngân hàng được thuận lợi.


2.4.2. Những mặt còn hạn chế

Thứ nhất, hoạt động quản trị RRTK của ngân hàng Agribank còn mang tính thụ động, chưa chuyên nghiệp và hiệu quả chưa cao.

Các công cụ hiện tại Agribank đang sử dụng để quản trị RRTK chủ yếu dựa trên các yêu cầu của NHNN. So với thông lệ quốc tế, Agribank còn thiếu phương pháp đo lường/công cụ nội bộ để đánh giá RRTK của riêng ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng chưa có các chỉ số cảnh báo sớm để nhận diện các vấn đề RRTK phát sinh, chưa thực hiện định kỳ thử nghiệm sức chịu đựng cho RRTK cũng như chưa áp dụng kiểm soát nội bộ trong việc nắm giữ “mức đệm” tài sản thanh khoản.

Mặc dù một số công cụ như phân tích và quản trị độ lệch thời gian, tình huống, rủi ro tập trung, ảnh hưởng của các cam kết cho vay chưa giải ngân,… đã được triển khai song chưa được nhân rộng và có sự linh hoạt trong việc ứng dụng thực tiễn. Các giả định về thanh khoản chưa được tập hợp và xây dựng một cách hệ thống từ đó chủ động đưa ra các biện pháp ứng phó khi RRTK phát sinh.

Do chưa có các công cụ cần thiết, ngân hàng chưa nắm rõ mức độ RRTK của mình, quản trị RRTK hầu như vẫn mang tính chất thụ động, nên hầu như ngân hàng vẫn chủ yếu dựa vào giới hạn tuân thủ của NHNN, chứ chưa có giới hạn nội bộ trên cấp độ toàn hệ thống cho mục đích quản trị RRTK. Điều này dẫn tới hiệu quả công tác quản trị RRTK của Agribank chưa cao. Các giới hạn tuân thủ về quản trị thanh khoản mà NHNN đưa ra được thiết lập như nhau cho tất cả các TCTD. Do đó, về cơ bản chúng không phản ánh đúng bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của từng ngân hàng riêng lẻ. Trong điều kiện hội nhập tài chính, mức độ cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là rất lớn, các cú sốc tài chính ngân hàng khu vực và toàn cầu diễn biến khó lường, việc quản trị RRTK một cách thụ động có thể khiến hoạt động kinh doanh của Agribank gặp rủi ro. Mặt khác, chính sự thụ động trong hoạt động quản trị rủi ro cũng khiến hiệu quả kinh doanh chung của ngân hàng đạt thấp.

Ngoài việc quản trị RRTK một cách khá thụ động, chất lượng hoạt động quản lý RRTK của ngân hàng chưa thực sự chuyên nghiệp. Sự chưa chuyên nghiệp trong hoạt động quản lý RRTK tại Agribank thể hiện ở chỗ có những thời điểm dư


thừa hoặc thiếu hụt thanh khoản. Điều này khiến cho hoặc là lãng phí nguồn thanh khoản hoặc là đẩy ngân hàng vào tình thế phải chịu chi phí cao để bù đắp. Thực tiễn cho thấy việc lập kế hoạch cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn tại Agribank chưa thực sự tốt.

Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực và sự phối hợp trong công tác quản trị RRTK của Agribank còn chưa cao.

Theo thống kê tại Agribank thì trong tổng số cán bộ/nhân viên tính đến cuối năm 2016 là 35.903 người thì số người có kinh nghiệm nghề nghiệp (trên 05 năm trong nghề) là 30.188, chiếm trên 84% tổng số cán bộ/nhân viên trong ngân hàng, số được đào tạo đạt trình độ Đại học trở lên là 31.701 người, tức là chiếm trên 88% là được đào tạo từ trình độ đại học trở lên, trong đó: (i) số được đào tạo đúng chuyên ngành tài chính – ngân hàng là 20.448 người, tức là chỉ khoảng gần 57% số cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành, (ii) số được đào tạo ở nước ngoài là 322 người, chiếm khoảng gần 0,9% tổng số cán bộ nhân viên của ngân hàng này. Các tư liệu phân tích trên đây cho thấy một thực tế là mặc dù đại bộ phận cán bộ/nhân viên của Agribank đã được đào tạo đạt trình độ cao, đa phần đã có kinh nghiệm và những kỹ năng nghề cần thiết để hoạt động, song số được đào tạo đúng chuyên ngành còn thấp, đa phần được đào tạo trong nước, số được đào tạo ở nước ngoài còn quá thấp, điều này sẽ có thể là lực cản trong quá trình hội nhập tài chính của ngân hàng này. Nếu xét riêng số cán bộ trực tiếp làm công tác quản trị RRTK thì nhìn chung còn khá nhiều hạn chế, các kinh nghiệm, kỹ năng còn nhiều bất cập, đặc biệt là khả năng tổng hợp thông tin, năng lực dự báo thị trường, các kịch bản xử lý các tình huống phát sinh trong thực tiễn…

Tóm lại, các cán bộ làm công tác quản trị rủi ro song lại chưa có tầm nhìn bao quát, chưa lường trước được các diễn biến của thị trường để có thể dự báo chính xác ngân hàng liệu sẽ phải đối diện với rủi ro trong tương lai hay không. Một bộ phận không nhỏ cán bộ tác nghiệp song lại thiếu tư cách đạo đức khiến uy tín của ngân hàng bị sụt giảm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, sự phối hợp trong công tác quản trị RRTK tương đối hạn chế khi các chi nhánh, phòng ban thường coi công tác


quản trị RRTK thuộc trách nhiệm của Hội sở chính. Việc không đánh giá đúng mực về công tác quản trị RRTK này đã khiến công tác báo cáo liên quan tới thông tin về thanh khoản được thực hiện chậm trễ và chưa chuyên nghiệp.

Thứ ba, công tác nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và ý thức về sự đa dạng hóa sản phẩm chưa được đầu tư đúng mức.

Trong quá trình quản lý RRTK, việc nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới là rất quan trọng nhằm hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng. Một số sản phẩm phái sinh có thể giúp ngân hàng trong việc điều hòa thanh khoản trong khi vẫn mang lại cho ngân hàng nguồn thu từ phí. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa sản phẩm còn khiêm tốn của Agribank trong thời gian qua đã giới hạn sự phát triển của ngân hàng.

Ngoài ra, ngân hàng còn có sự chưa hợp lý trong nguồn huy động tiền gửi. Nguồn huy động chủ yếu là các khoản huy động tiền gửi kỳ hạn ngắn hoặc không kỳ hạn. Huy động tiền gửi kỳ hạn trên 1 năm chỉ chiếm khoảng 20% tổng huy động tiền gửi trong khi nhu cầu vay vốn trung dài hạn ngày càng gia tăng dẫn tới tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn còn lớn. Sự bất hợp lý này dẫn đến việc Agribank khó đa dạng hóa được thời gian vay vốn hoặc nếu cho vay thời hạn dài sẽ tạo ra RRTK lớn cho ngân hàng.

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế

2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, môi trường pháp luật cho hoạt động quản trị RRTK ngân hàng còn chưa đồng bộ và hoàn thiện.

Mặc dù đã có một số văn bản pháp luật quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của các TCTD với những đổi mới theo Basel II, cho đến nay vẫn còn thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện quản trị RRTK theo chuẩn mực này. Hiện nay, BIS đã đưa ra các quy định về quản trị RRTK ngân hàng tại Basel III, song những đổi mới luật pháp của Việt Nam mới chỉ dừng ở việc triển khai áp dụng các quy định của Basel II. Sự thiếu hụt về hướng dẫn chi tiết mang tính ứng dụng của cơ quan quản lý có thể đã gây khó khăn cho ngân hàng trong việc áp dụng các chuẩn mực quản trị RRTK mới.

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 13/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí