Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Chất Lượng Quản Lý Rủi Ro Tác Nghiệp Của Nhtm


Trong đó:

KTSA = yêu cầu về vốn theo Phương pháp Chuẩn hoá

GI1-8 = Lợi nhuận gộp hàng năm bình quân của ba năm gần nhất, được xác định như trong Phương pháp Chỉ số Cơ bản nêu trên, cho mỗi một trong 8 mảng nghiệp vụ.

β1-8 = là một tỷ lệ phần trăm cố định, do Uỷ ban Basel quy định, phản ánh mối quan hệ giữa lượng vốn yêu cầu với lợi nhuận gộp của mỗi một mảng nghiệp vụ. Chi tiết các giá trị của beta như sau:

Hệ số Beta cho mỗi mảng nghiệp vụ:


(1) Tài chính Doanh nghiệp (β1)


18%

(2) Thương mại và Bán hàng (β2)


18%

(3) Ngân hàng bán lẻ (β3)


12%

(4) Ngân hàng thương mại4)


15%

(5) Thanh toán (β5)


18%

(6) Dịch vụ đại lý (β6)


15%

(7) Quản lý tài sản (β7)


12%

(8) Môi giới bán lẻ (β8)


12%

Phương pháp Đo lường

Approach - AMA)

Tiên

tiến (Advanced Measurement

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.

Quản lý rủi ro tác nghiệp của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam 1669821519 - 8

Trong phương pháp AMA, yêu cầu về vốn pháp định sẽ bằng độ lớn của rủi ro theo kết quả đo lường của hệ thống đo lường rủi ro tác nghiệp của Ngân hàng, với điều kiện hệ thống đó đạt được các tiêu chuẩn định tính và định lượng đối với Phương pháp AMA. Các Ngân hàng chỉ được áp dụng phương pháp AMA sau khi được Cơ quan quản lý Ngân hàng cho phép.

Để đủ điều kiện áp dụng phương pháp Chuẩn hoá hoặc phương pháp AMA, Ngân hàng cần chứng minh với Cơ quan quản lý Ngân hàng rằng, ít nhất:

- Hội đồng Quản trị và Ban điều hành cao cấp của Ngân hàng, tuỳ từng trường hợp, đóng vai trò tích cực trong việc giám sát hoạt động quản lý rủi ro.


- Ngân hàng phải có một hệ thống quản lý rủi ro tác nghiệp trên một nguyên lý đúng đắn và được thi hành một cách toàn diện và đồng bộ; và

- Ngân hàng có đủ nguồn lực cho việc sử dụng phương pháp được lựa chọn trong những mảng nghiệp vụ chính, cũng như trong lĩnh vực kiểm soát và kiểm toán.

Cơ quan quản lý Ngân hàng có quyền áp đặt thời gian giám sát ban đầu của việc áp dụng Phương pháp Chuẩn hoá cho một Ngân hàng trước khi nó được sử dụng cho mục tiêu tính toán mức vốn pháp định cần thiết.

Phương pháp AMA cũng đòi hỏi một thời gian giám sát ban đầu của Cơ quan quản lý Ngân hàng trước khi nó được sử dụng để xác định lượng vốn cần thiết. Thời hạn này sẽ cho phép Cơ quan quản lý Ngân hàng đánh giá xem phương pháp ấy có chính xác và đáng tin cậy hay không. Hệ thống đo lường nội bộ của một Ngân hàng phải dự đoán được với độ chính xác hợp lý quy mô của những tổn thất không tính trước được trên cơ sở kết hợp sử dụng dữ liệu tổn thất của Ngân hàng và dữ liệu tổn thất từ các nguồn bên ngoài, thực hiện việc phân tích tình huống và các yếu tố cụ thể trong môi trường kinh doanh của Ngân hàng và các yếu tố kiểm soát nội bộ. Hệ thống đo lường của Ngân hàng cũng phải có đủ khả năng hỗ trợ việc phân bổ nguồn vốn kinh tế cho các rủi ro tác nghiệp trong các mảng nghiệp vụ để có thể khuyến khích việc cải thiện công tác quản lý rủi ro tác nghiệp tại mỗi mảng nghiệp vụ.

Một Ngân hàng sẽ được phép sử dụng phương pháp AMA cho một số bộ phận hoạt động và sử dụng phương pháp Chỉ số Cơ bản hoặc Phương pháp chuẩn hoá cho các phần còn lại (Sử dụng từng phần), với điều kiện Ngân hàng phải đáp ứng được những chỉ tiêu sau đây:

- Toàn bộ rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng phải được đề cập đến;

- Toàn bộ hoạt động của Ngân hàng được áp dụng phương pháp AMA phải đáp ứng được các chỉ tiêu định tính cho việc sử dụng AMA, trong khi những phần trong hoạt động của Ngân hàng đang sử dụng phương pháp đơn giản hơn đáp ứng được các chỉ tiêu định lượng cho các phương pháp đó;


- Về dữ liệu áp dụng của phương pháp AMA, một phần cơ bản của rủi ro tác nghiệp của Ngân hàng phải được đề cập đến bằng phương pháp AMA;

- Ngân hàng cung cấp cho Cơ quan quản lý Ngân hàng một kế hoạch nêu chi tiết thời gian biểu mà Ngân hàng dự tính sẽ triển khai nhân rộng phương pháp AMA cho các đơn vị thành viên và hoạt động cơ bản của Ngân hàng. Kế hoạch này phải có tính thực tế và khả thi trong việc triển khải AMA xuyên suốt thời gian, mà không phải vì các lý do khác.

Tuỳ thuộc vào việc phê chuẩn của Cơ quan quản lý Ngân hàng, một Ngân hàng đang lựa chọn sử dụng từng phần có thể quyết định xem những phần hoạt động nào sẽ áp dụng AMA theo từng mảng nghiệp vụ, theo cấu trúc pháp lý, theo vùng địa lý, hoặc các cơ sở xác định nội bộ khác.

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng quản lý rủi ro tác nghiệp của NHTM

1.2.3.1. Các chỉ tiêu định lượng

* Chỉ tiêu thứ nhất: Số lượng các dấu hiệu rủi ro phát sinh trong kỳ báo cáo.

Chỉ tiêu này được thống kê chi tiết cho từng dấu hiệu rủi ro được quy định trong thư viện các dấu hiệu rủi ro tác nghiệp của mỗi Ngân hàng trong một kỳ báo cáo (tháng, quý, năm) và nó thường được so sánh với con số thống kê của kỳ báo cáo trước đó hoặc so sánh với mức mà Ngân hàng chấp nhận xác định trước. Đương nhiên Chỉ tiêu này càng nhỏ hơn số thống kê của kỳ báo cáo trước đó hoặc với mức mà Ngân hàng chấp nhận được càng tốt.

* Chỉ tiêu thứ hai: Xác suất xảy ra các dấu hiệu rủi ro


Xác suất xảy ra dấu hiệu rủi ro thứ i


=

Số lần xảy ra dấu hiệu rủi ro thứ i

--------------------------------------------------------

Tổng số giao dịch nghiệp vụ thứ (i) trong kỳ báo cáo


x 100%

Chỉ tiêu này cũng được tính chi tiết cho từng dấu hiệu rủi ro tác nghiệp trong ngân hàng dữ liệu dấu hiệu rủi ro của Ngân hàng. Nó thường được so sánh với kỳ trước và/hoặc với số chấp nhận của mỗi Ngân hàng. Chỉ tiêu này thể hiện khả năng


xảy ra dấu hiệu rủi ro trong tổng số nghiệp vụ diễn ra ở kỳ báo cáo. Chỉ tiêu này càng lớn xác suất xảy ra dấu hiệu rủi ro của ngân hàng càng cao và ngược lại.

* Chỉ tiêu thứ ba: Số lượng các sự cố phát sinh trong kỳ

Chỉ tiêu này được thống kê chi tiết cho từng loại sự cố xảy ra trong một kỳ báo cáo và nó thường được so sánh với con số thống kê của kỳ báo cáo trước đó. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng thể hiện được tính hiệu quả của công tác QLRRTN do các biện pháp phòng ngừa hiệu quả đã ngăn chặn và loại bỏ các SKRR xảy ra.

* Chỉ tiêu thứ tư: Tổng số tổn thất (tính bằng tiền) xảy ra trong kỳ báo cáo

Tổng số tổn thất của n sự kiện rủi ro

Cũng giống như các chỉ tiêu trên, chỉ tiêu này được đánh giá qua số tuyệt đối và số tương đối khi so sánh với số thống kê của kỳ trước. Tổng số tổn thất xảy ra trong kỳ báo cáo càng nhỏ và giảm so với kỳ trước chứng tỏ công tác quản lý RRTN càng đạt hiệu quả do hạn chế được những tổn thất về mặt tài chính cho ngân hàng và ngược lại. Chỉ tiêu này cũng được sử dụng để đánh giá tính hiệu quả của công tác QLRRTN của ngân hàng qua thời gian.

* Chỉ tiêu thứ năm: Số lượng vốn phân bổ cho rủi ro tác nghiệp

Số lượng vốn phân bổ cho rủi ro tác nghiệp được hiểu là số tiền trích lập dự phòng cho rủi ro tác nghiệp có thể phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Như đã trình bày ở phần 2.1.2.5 trên đây, việc tính toán, phân bổ vốn dành cho rủi ro tác nghiệp được tính bằng một trong 3 phương pháp: Phương pháp cơ bản; Phương pháp chuẩn hóa và Phương pháp đo lường tiên tiến. Trong thực tế hoạt động của mỗi Ngân hàng, số vốn kinh tế phân bổ cho rủi ro tác nghiệp càng nhỏ càng tốt. Muốn vậy, các Ngân hàng nên thực hiện tính toán, phân bổ theo phương pháp đo lường tiên tiến. Tuy nhiên, để được tính toán phân bổ theo phương pháp này, Ngân hàng phải đạt được những điều kiện khắt khe như đã trình bày.


1.2.3.2. Các chỉ tiêu định tính

Việc đánh giá hoạt động quản lý rủi ro tác nghiệp của mỗi Ngân hàng không chỉ dựa trên các chỉ tiêu định lượng như đã trình bày trên đây mà còn sử dụng các yếu tố định tính như: Việc phân tích đánh giá mô hình quản lý rủi ro tác nghiệp; đánh giá về bộ máy tổ chức cũng như quy định, quy trình quản lý rủi ro của Ngân hàng; các công cụ sử dụng trong QLRRTN; các biện pháp phòng ngửa, giảm thiểu rủi ro…

Tính hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý rủi ro tác nghiệp: Đây là một chỉ tiêu định tính quan trọng. Một bộ máy QLRRTN tiên tiến, hiện đại, khoa học, chặt chẽ với sự phân quyền hợp lý cho nhân viên sẽ tạo điều kiện để từng bộ phận, cá nhân thực hiện tốt nhất chức năng, nhiệm vụ của mình trong QLRRTN. Bên cạnh đó tính hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý rủi ro tác nghiệp còn là yếu tố hàng đầu nhằm tối ưu hóa thời gian, chi phí và nâng cao hiệu quả công tác QLRRTN. Mô hình quản lý RRTN hiện đại được khuyến nghị hiện nay là mô hình quản lý theo chiều dọc, các bộ phận, đơn vị đầu mối làm công tác tổng hợp báo cáo lên lãnh đạo có thẩm quyền thông qua cơ quan tham mưu, giúp việc.

Tính tuân thủ các quy định, quy trình quản lý rủi ro tác nghiệp: Quy định, quy trình là hệ thống quy phạm nội bộ điều chỉnh hành vi, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của từng cá nhân, bộ phận trong tổ chức. Sự tuân thủ các quy định, quy trình quản lý rủi ro tác nghiệp là điều kiện cần để hoạt động quản lý rủi ro tác nghiệp được hiệu quả. Để đảm bảo tính tuân thủ, quy định, quy trình quản lý rủi ro tác nghiệp phải được văn bản hóa và phổ biến tới từng các nhân, đơn vị trong tổ chức. Quy định, quy trình QLRRTN chặt chẽ, không chồng chéo, có tính bao quát và toàn diện là cơ sở để hoạt động QLRRTN diễn ra thuận lợi, đảm bảo tính hiệu quả.

Tính phù hợp, tính hiệu quả của các công cụ sử dụng trong QLRRTN: Tính phù hợp và hiệu quả của các công cụ sử dụng trong QLRRTN sẽ quyết định tính chính xác, kịp thời và tiết kiệm thời gian, chi phí của ngân hàng trong hoạt động QLRRTN. Các công cụ này càng hiện đại, khoa học, chính xác thì hiệu quả QLRRTN càng cao và ngược lại.


Tính đa dạng và hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro: Các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro là phương án, kế hoạch loại trừ rủi ro một cách cụ thể, chi tiết của ngân hàng. Theo đó, ngân hàng sử dụng các biện pháp này để ngăn ngừa, hạn chế tổn thất cho ngân hàng khi các dấu hiệu rủi ro hoặc các sự kiện rủi ro xảy ra. Các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro của ngân hàng càng đa dạng thì khả năng khắc phục, hạn chế tổn thất càng cao và ngược lại.

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro tác nghiệp của ngân hàng thương mại

Vì rủi ro là nhân tố trừu tượng, rủi ro là tiềm ẩn và nguy cơ có thể xảy ra, rủi ro tác nghiệp mang phạm vi rộng và tần suất khá lớn, vì vậy QLRRTN cần liên tục và mang tính kịp thời. QLRRTN không chỉ được thực hiện khi khủng hoảng xảy ra hay giải quyết những hậu quả của một SKRRTN mà bản chất của QLRRTN là nắm bắt được rủi ro để các nhà kinh doanh, cổ đông kinh doanh trên rủi ro theo mức độ/khẩu vị rủi ro của Ngân hàng theo từng thời kỳ. Hệ thống QLRRTN cần được phân tích từng các nhân tố để đảm bảo hệ thống hoạt động đáp ứng được mục tiêu QLRRTN qua từng thời kỳ.

1.2.4.1. Nhóm các nhân tố khách quan

(1) Môi trường kinh doanh

Ngân hàng cũng giống như bất cứ doanh nghiệp nào khác trong nền kinh tế quốc dân, hoạt động luôn đặt trong một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường đó là tổng hợp các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong phạm vị đề tài nghiên cứu, tác giả đưa ra 2 yếu tố chính của môi trường kinh doanh có ảnh hưởng tới công tác QLRRTN như sau:

Thể chế chính trị và môi trường pháp lý

Mỗi quốc gia đều tồn tại và phát triển gắn liền với một thể chế chính trị nhất định. Thể chế chính trị sẽ quyết định cách thức và tốc độ phát triển của quốc


gia đó. Nền kinh tế của mỗi quốc gia là minh chứng rõ rệt nhất cho sự tác động của thể chế chính trị lên toàn bộ hoạt động của xã hội.

Kinh doanh trong một môi trường chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự thành công của các doanh nghiệp. Khi môi trường chính trị bất ổn sẽ kéo theo những rủi ro chính trị không lường trước được và những rủi ro bất khả kháng khác gây ra bởi hệ lụy của rủi ro chính trị.

Thể chế chính trị là nhân tố trực tiếp quyết định môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý lành mạnh, ổn định là một trong những cơ sở quan trọng giúp các doanh nghiệp yên tâm phát triển. Sự bất ổn, chồng chéo, lỏng lẻo của các quy định, văn bản pháp luật là nguyên nhân làm tăng rủi ro, đặc biệt là rủi ro về mặt chính sách trong kinh doanh và làm giảm niềm tin của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự sơ hở, thiếu tính chặt chẽ của các văn bản quy phạm pháp luật sẽ tạo điều kiện để một bộ phận cá nhân, tập thể lợi dụng, trục lợi, gây tổn thất cho doanh nghiệp và thiệt hại cho cả nền kinh tế nói chung.

Điều kiện tự nhiên và xã hội

Hoạt động của nền kinh tế nói chung và hệ thống các ngân hàng nói riêng chịu tác động không nhỏ của điều kiện tự nhiên. Những hiện tượng bất thường của tự nhiên như thiên tai, bão lũ, động đất, nủi lửa, dịch bệnh… có thể dẫn đến những rủi ro bất khả kháng trong quá trình tác nghiệp của các ngân hàng, doanh nghiệp.

Trong điều kiện những rủi ro do điều kiện tự nhiên gây ra đang có xu hướng ngày một gia tăng và trở thành mối quan tâm của toàn nhân loại, thì hoạt động quản trị rủi ro nói chung và quản trị RRTN nói riêng của các ngân hàng phải có kế hoạch, kịch bản ứng phó sẵn sàng và biện pháp khắc phục hậu quả nếu những rủi ro đó diễn ra bất ngờ.

Các hiện tượng tự nhiên như thiên tai, bão lụt, hạn hán hay điều kiện xã hội như phong tục tập quán, đặc điểm vùng miền cũng phần nào tác động đến công tác quản trị rủi ro tác nghiệp.

(2) Nền tảng công nghệ


Công nghệ là sự phát minh, thay đổi, việc sử dụng, và kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống, và phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một chức năng cụ thể. Công nghệ cũng có thể chỉ là một tập hợp những công cụ như vậy, bao gồm máy móc, những sự sắp xếp, hay những quy trình. Công nghệ ảnh hưởng đáng kể lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con người cũng như của những động vật khác vào môi trường tự nhiên của mình.

Nền tảng công nghệ là tổng hợp những thành tựu, kết quả, tiến bộ công nghệ mà con người đạt được góp phần hỗ trợ con người trong quá trình xử lý công việc, thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của mình.

Nền tảng công nghệ có ảnh hưởng to lớn tới hiệu quả QLRRTN, đặc biệt là hệ thống CNTT. Công nghệ thông tin là một thuật ngữ bao gồm phần mềm, mạng lưới internet, hệ thống máy tính sử dụng cho việc phân phối và xử lý dữ liệu, trao đổi, lưu trữ và sử dụng thông tin dưới hình thức khác nhau. Một cách dễ hiểu hơn, Công nghệ thông tin là việc sử dụng công nghệ hiện đại vào việc tạo ra, xử lý, truyền dẫn thông tin, lưu trữ, khai thác thông tin.

Công nghệ thông tin tham gia vào mọi công đoạn trong quá trình QLRRTN, giúp cho công tác QLRRTN diễn ra nhanh, chính xác, tiết kiệm chi phí và đạt được hiệu quả cao.

1.2.4.2. Nhóm các nhân tố chủ quan

(1) Văn hóa QLRRTN

Trong những năm gần đây, có thể thấy, hầu hết các ngân hàng đã có những thay đổi lớn trong quan điểm quản trị rủi ro. Trước hết, không thể không kể đến nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước trong việc củng cố và nâng cao năng lực quản trị rủi ro của hệ thống ngân hàng bằng việc ban hành các quy định mới về an toàn trong hoạt động. Tuy nhiên, các ngân hàng cũng đã chủ động và tích cực để xây dựng khung quản trị rủi ro, hướng tới phù hợp và tuân thủ theo thông lệ quốc tế, đồng thời chú trọng tới việc xây dựng văn hóa quản lý rủi ro.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/11/2022