Tổng Quan Về Các Nhân Tố Tác Động Đén Rủi Ro Tín Dụng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại – Giới Thiệu Mô Hình Nghiên Cứu.


CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐÉN RỦI RO TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI – GIỚI THIỆU MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU.

2.1 Khái niệm và cách thức đo lường rủi ro tín dụng.

2.1.1 Rủi ro tín dụng

2.1.1.1 Khái niệm tín dụng

Có thể hiểu tín dụng bằng các khái niệm sau đây:

Tín dụng là một mối quan hệ xã hội, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa chủ thể kinh tế này với chủ thể kinh tế khác trên nguyên tắc có hoàn trả. Nói cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người cho vay (người sở hữu) sang người đi vay (người sử dụng) và khi đến hạn phải hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn cái ban đầu. Khoản giá trị dư ra này được gọi là lợi tức tín dụng.

Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thái xã hội khác nhau. Hiểu một cách thông thường nhất, tín dụng là vay mượn. Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định.

Tín dụng, theo tiếng Latinh gọi là creditium, tiếng Anh gọi là credit, có nghĩa là sự vay mượn. Về mặt tài chính, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định.

Qua đó, có thể hiểu tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định. Khoản chi phí này còn được gọi là lợi tức tín dụng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

2.1.1.2 Khái niệm rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng có thể hiểu như sau:

Các nhân tố tác động đến rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, khu vực thành phố Hồ Chí Minh - 3

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh do khách hàng vay nợ không đủ khả năng trả nợ và lãi vay cho ngân hàng.


Rủi ro tín dụng còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn. Rủi ro tín dụng được hiểu là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng theo hợp đồng.

Rủi ro tín dụng là rủi ro mà Ngân hàng có khả năng phải chịu tổn thất trong quá trình hoạt động kinh doanh. Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn hoặc không thanh toán. Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản. Tóm lại, có thể hiểu rằng, rủi ro tín dụng là khả năng ngân hàng phải chịu tổn thất khi người vay không trả được nợ và lãi vay cho ngân hàng.

2.1.1.3 Phân loại rủi ro tín dụng

Phân loại rủi ro tín dụng theo nguyên nhân phát sinh

Rủi ro tín dụng được chia thành hai loại là rủi ro giao dịch (Transaction risk) và rủi ro danh mục (Portfolio risk):

- Rủi ro giao dịch: Là một dạng hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế, yếu kém trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng.

- Rủi ro danh mục: Là một dạng hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng, được phân thành hai loại: rủi ro nội tại (Intrinsic) và rủi ro tập trung (Concentration risk).

+ Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố và các đặc điểm riêng có mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.

+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, hoặc trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.


Phân loại rủi ro theo khả năng trả nợ của khách hàng

Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau: Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn và rủi ro do không có khả năng trả nợ:

- Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn (rủi ro đọng vốn): Khi các bên thiết lập mối quan hệ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải quy ước về khoảng thời gian hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên đến thời hạn mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay, những tổn thất xảy ra trong trường hợp này người ta gọi đó là rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn.

- Rủi ro do không có khả năng trả nợ: là rủi ro xảy ra trong trường hợp khách hàng đi vay đã mất khả năng chi trả. Do vậy ngân hàng phải thanh lý tài sản của khách hàng để thu nợ.

Khi không thu được lãi đúng hạn, nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ cần đưa vào mục lãi treo phát sinh. Nếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản mục lãi treo đóng băng, trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó cho doanh nghiệp.

Khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên, khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có thể bởi lý do nào đó mà doanh nghiệp chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu khoản cho vay này ngân hàng không thể thu hồi được (ví dụ do doanh nghiệp bị phá sản) thì lúc này ngân hàng coi như gặp rủi ro tín dụng ở mức độ cao vì đã phát sinh khoản nợ không có khả năng thu hồi, trừ những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xóa nợ thì ngân hàng có thể xem xét để xóa nợ cho doanh nghiệp.

Các nguy cơ xảy ra rủi ro như lãi treo thường được chú trọng nhiều hơn trong phân tích, đánh giá, còn lãi treo đóng băng và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học.

2.1.2 Cách thức đo lường rủi ro tín dụng


Đo lường rủi ro tín dụng là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hoá mức độ các rủi ro cũng như biết được khả năng, xác suất xảy ra rủi ro, mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra để xem xét khả năng chấp nhận nó của ngân hàng.

2.1.2.1 Mô hình định tính (truyền thống)

- Mô hình 6C: Phương pháp này đi sâu vào nghiên cứu nhóm 6 chỉ tiêu sau:

+ Capacity (Năng lực trả nợ). Đây là đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng. Ngân hàng cần phải biết làm thế nào khách hàng sẽ trả lại tiền trước chấp thuận cấp tín dụng. Năng lực trả nợ được đánh giá bởi một số thành phần, bao gồm:

Dòng tiền là thu nhập mà doanh nghiệp tạo ra so với chi phí cần thiết để điều hành doanh nghiệp, được phân tích trong một khoảng thời gian cụ thể - thường là hai hoặc ba năm. Nếu là khách hàng mới khởi nghiệp, một báo cáo dòng tiền hàng tháng cho năm thứ nhất là cần thiết.

Lịch sử thanh toán đề cập đến tính kịp thời của khoản thanh toán đã được thực hiện đối với các khoản vay trước đó.

Các nguồn dự phòng để trả nợ là các nguồn thu nhập bổ sung có thể được sử dụng để trả nợ. Chúng có thể bao gồm tài sản cá nhân, tài khoản tiết kiệm hoặc các tài sản khác có thể được sử dụng. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, thu nhập của vợ chồng làm việc bên ngoài doanh nghiệp thường được xem xét.

+ Capital (Cấu trúc vốn): Chủ sở hữu của một công ty phải có vốn đầu tư của mình vào công ty trước khi tổ chức tài chính sẵn sàng mạo hiểm đầu tư cho họ. Vốn chủ sở hữu có thể bị mất nếu doanh nghiệp thua lỗ. Lý do phổ biến nhất mà các doanh nghiệp mới thất bại là thiếu vốn. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng muốn có ít nhất 25% nguồn vốn của công ty đến từ vốn chủ sở hữu. Ngân hàng cũng nhìn nhận vốn chủ sở hữu như là chỉ báo của mức độ cam kết cũng như mức rủi ro của khách hàng đối với kinh doanh của mình.

+ Collateral (Tài sản thế chấp): Máy móc, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các tài sản từ hoạt động kinh doanh khác có tính thanh khoản đều được coi là tài sản thế chấp nếu người vay không trả được nợ. Hầu hết các khoản cho vay doanh nghiệp nhỏ cần phải có tài sản cá nhân của chủ sở hữu doanh nghiệp (như


nhà riêng hoặc ô tô) để được phê duyệt cấp tín dụng. Khi chủ doanh nghiệp sử dụng tài sản cá nhân của mình để đảm bảo khoản vay, điều này có nghĩa là ngân hàng có thể bán những tài sản cá nhân đó để đáp ứng bất kỳ khoản nợ chưa thanh toán nào. Tài sản đảm bảo được coi là nguồn hoàn trả "thứ cấp" - các ngân hàng muốn tiền mặt để trả nợ, chứ không phải bán tài sản thế chấp.

+ Character (Nhân cách): Đây là đánh giá mang tính chủ quan cao đối với lịch sử của khách hàng. Các ngân hàng tin rằng khách hàng là đáng tin cậy và điều đó phụ thuộc vào việc hoàn trả khoản vay của khách hàng. Các đặc điểm cơ bản như lịch sử tín dụng, trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc là tất cả các yếu tố trong phân tích tín dụng. Nhân cách là yếu tố quan trọng nhất được xem xét bởi một ngân hàng có uy tín. Các ngân hàng muốn làm ăn với những người trung thực, đạo đức và công bằng. Sự khác biệt giữa khả năng trả nợ và sự sẵn lòng trả nợ là một ví dụ về nhân cách của một người. Kiến thức, kỹ năng và khả năng của chủ sở hữu và đội ngũ quản lý doanh nghiệp là những yếu tố quan trọng trong quyết định cấp tín dụng.

+ Conditions (Các điều kiện khác): Đây là đánh giá tổng thể về tình hình kinh tế và mục đích của khoản vay. Các điều kiện kinh tế cụ thể đối với ngành nghề kinh doanh áp dụng cho khoản vay cũng như tình hình chung của nền kinh tế là những yếu tố quyết định cho phép phê duyệt một khoản vay. Rõ ràng, nếu một công ty thuộc một ngành công nghiệp thuận lợi trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế, sẽ có nhiều cơ hội được cho vay hơn một doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp đang suy giảm và trong điều kiện kinh tế không chắc chắn. Mục đích của khoản vay là một yếu tố quan trọng. Nếu một công ty có kế hoạch sử dụng khoản vay vào kinh doanh bằng cách mua thêm hàng hóa hoặc mở rộng thị trường của mình,thì sẽ có nhiều cơ hội được chấp thuận hơn nếu kế hoạch sử dụng khoản vay để bù đắp chi phí. Các yếu tố điển hình trong bước đánh giá này bao gồm: sức mạnh và số lượng đối thủ cạnh tranh, quy mô và sự hấp dẫn của thị trường, sự phụ thuộc vào thay đổi thị hiếu và sở thích của khách hàng,


sự tập trung khách hàng hoặc nhà cung cấp, hoặc các lực lượng chính trị có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.

+ Confidence (Sự tự tin): Một khách hàng đạt được sự tin tưởng từ ngân hàng bằng cách giải quyết tất cả các mối quan tâm của ngân hàng đối với khách hàng đó. Đơn xin vay của họ gửi thông điệp rằng công ty là chuyên nghiệp, có tiếng tăm trung thực, lịch sử tín dụng tốt, báo cáo tài chính hợp lý, và tài sản thế chấp đầy đủ..

- Mô hình 5P bao gồm:

+ Person – Con người vay vốn;

+ Purpose – Mục đích vay vốn;

+ Payment source – Nguồn trả nợ;

+ Policy – Chính sách kinh doanh;

+ Properties – Quyền sở hữu các tài sản.

2.1.2.2 Mô hình định lượng

- Xếp hạng của các cơ quan xếp hạng tín dụng: đây là những công ty chuyên xếp hạng tín nhiệm đối với các nhà phát hành nợ/chứng khoán, hoặc đối với bản thân các loại nợ/chứng khoán. Ba công ty đánh giá tín dụng lớn nhất trên thế giới hiện nay (xét về thị phần) là các công ty Standard & Poor's (S&P), Moody's, và Fitch Group.

- Mô hình điểm số Z

Mô hình Z để dự đoán khả năng phá sản của doanh nghiệp đã được Edward

I. Altman nghiên cứu vào năm 1968, lúc đó ông là trợ lý giáo sư tài chính của Đại học New York. Mô hình này có thể được sử dụng để dự đoán xác suất mà một công ty sẽ bị phá sản trong vòng hai năm. Điểm Z được sử dụng để dự đoán sự thiếu sót của công ty và là một biện pháp kiểm soát cho tình trạng căng thẳng về tài chính của các công ty. Điểm số Z sử dụng nhiều giá trị từ kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp để đo lường tình trạng tài chính. Mục đích của mô hình này là phân chia người vay thành nhóm có rủi ro vỡ nợ cao và nhóm có rủi ro vỡ nợ thấp.


Điểm số Z bao gồm 5 chỉ số X1, X2, X3, X4, X5:

X1 = Tỷ số Vốn lưu động/Tổng tài sản (Working Capitals/Total Assets). X2 = Tỷ số Lợi nhuận giữ lại/Tổng tài sản (Retain Earnings/Total Assets)

X3 = Tỷ Số Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/Tổng tài sản (EBIT/Total Assets) X4 = Giá trị thị trường của Vốn chủ sỡ hữu/Giá trị sổ sách của Tổng nợ (Market

Value of Total Equity / Book values of total Liabilities) X5= Tỷ số Doanh thu/Tổng tài sản (Sales/Total Assets)

Từ một mô hình Z đầu tiên, Giáo Sư Edward I. Altman đã phát triển ra Z’ và Z’’ để có thể áp dụng theo từng loại hình và ngành của doanh nghiệp, như sau:

Đối với doanh nghiệp cổ phần hoá và hoạt động trong ngành sản xuất:


Z = 1.2×X1 + 1.4×X2 + 3.3×X3 + 0.64×X4 + 0.999×X5

* Nếu Z > 2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ vỡ nợ.

* Nếu 1.8 < Z < 2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ vỡ nợ.

* Nếu Z <1.8: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ vỡ nợ cao.

Đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hoá và hoạt động trong ngành sản xuất:


Z’ = 0.717×X1 + 0.847×X2 + 3.107×X3 + 0.42×X4 + 0.998×X5

* Nếu Z’ > 2.9: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ vỡ nợ.

* Nếu 1.23 < Z’ < 2.9: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ vỡ nợ.

* Nếu Z’ <1.23: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ vỡ nợ cao.

Đối với các doanh nghiệp khác:

Chỉ số Z’’ dưới đây có thể được dùng cho hầu hết các ngành, các loại hình doanh nghiệp. Vì có sự khác nhau tương đối lớn của X5 giữa các ngành, nên X5 đã được đưa ra khỏi mô hình. Công thức tính chỉ số Z’’ được điều chỉnh như sau:

Z’’ = 6.56×X1 + 3.26×X2 + 6.72×X3 + 1.05×X4

* Nếu Z’’ > 2.6: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ vỡ nợ.

* Nếu 1.2 < Z’’ < 2.6: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ vỡ nợ.


* Nếu Z <1.1: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ vỡ nợ cao.

- Mô hình xác suất tuyến tính: dựa trên các dữ liệu quá khứ, tính hệ số tương quan (βj) giữa các biến nguyên nhân j với rủi ro vỡ nợ của khoản vay i (Xij). Gọi Zi là xác suất vỡ nợ của người vay thứ i: Zi = ∑(βj × Xij) + error.

Ngoài ra, rủi ro tín dụng còn có thể được đo lường thông qua các chỉ tiêu như hệ số nợ quá hạn, hệ số nợ xấu, hệ số rủi ro mất vốn, hệ số khả năng bù đắp rủi ro,.... Trong đó, cách thức đo lường được sử dụng phổ biến là chỉ tiêu nợ xấu. Theo Quyết định 493/2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Bên cạnh đó, theo Phòng Thống kê - Liên Hợp Quốc, về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đấy đủ. Nhìn chung, khi sử dụng chỉ tiêu nợ xấu làm cách thức đo lường rủi ro tín dụng sẽ giúp các Ngân hàng quy mô và tỷ lệ vốn khó có thể thu hồi, từ đó sử dụng nguồn dự phòng rủi ro, lợi nhuận để bù đắp. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ cho thấy các con số trong quá khứ tại một thời điểm, khó có thể dự tính được mức độ rủi ro trong tương lai.

Khi Hiệp ước Basel II được công bố, các Ngân hàng bắt đầu tiếp cận đến một cách thức đo lường mới - VaR (Value at Risk). Một cách tổng quát, VaR được đo lường như tổn thất tối đa ở tình huống xấu nhất trong một khoảng thời gian xác định với mức xác suất cho trước. VaR cho phép tổng hợp tất cả các trạng thái rủi ro và các khoản vay khác nhau để tìm ra một con số nhằm trả lởi câu hỏi "Nếu năm sau là một năm không lợi nhuận, tổn thất tín dụng tối đa của ngân hàng là bao nhiêu với độ tin cậy cho trước?", từ đó xác định mức vốn cần thiết để chống đỡ cho rủi ro này.

Ngày đăng: 08/10/2024