Hoạt Động Tín Dụng Và Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại


Vấn đề rủi ro tín dụng cũng được đề cập tới một số tạp chí chuyên ngành như : “Cơ sở lý luận, thách thức và giải pháp cho hệ thống NHTM Việt Nam” của Tiến sĩ Phí Trọng Hiển; “Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụngtrong kinh doanh ngân hàng” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Thanh; “Mô hình quản lý rủi ro nội bộ trong hoạt động ngân hàng” của tác giả Bùi Thị Thu Thủy... Bài viết của Nguyễn Đức Cường (2006) “Nguyễn tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” trên tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ; Lê Thị Hạn (2016) “Kiểm soát rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn Basel II tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” đã đề cập tới việc ứng dụng những nguyên tắc của Basel trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng.

Ngoài ra vấn đề rủi ro tín dụng còn được đề cập ở một số công trình nghiên cứu khoa học khác. Bài viết của Nguyễn Đào Tố (2008) trên tạp chí ngân hàng, số 5 nhấn mạnh tới sự cần thiết phải ứng dụng những nguyên tắc Basel về quản lý rủi ro tín dụng, từ đó xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với các NHTM Việt Nam... Những bài báo trên, các tác giả đã hệ thống hóa, phân tích và đưa ra sự lựa chọn khái niệm về quản lý rủi ro tíndụng trong NHTM; làm rõ vai trò và sự cần thiết của nó trong hoạt động kinh doanh; định hướng cho các NHTM. So với các nghiên cứu ở trên, thì các bài viết này có ưu điểm là đã tiếp cận quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế, ứng dụng các nguyên tắc của Ủy ban Basel, chưa xây dựng mô hình kiểm định các nhân tố.

Trong khoảng thời gian gần đây có khá nhiều bài viết liên quan trực tiếp đến đề

tài đăng trên tạp chí chuyên ngành tiêu biểu đề cập dưới đây:

Bài viết “Hoàn thiện mô hình tổ chức quản trị rủi ro tín dụng tại Agribank nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hội nhập quốc tế” của hai tác giả: Đinh Thu Hương và Phan Đăng Lưu, đăng trên tạp chí ngân hàng số 5/2014. Thành công cơ bản của bài viết đó là nghiên cứu sau khi mô hình quản trị rủi ro tín dụng của NHTM theo thông lệ quốc tế, đã nêu bật mô hình quản trị rủi ro tín dụng của Agribank theo 3 tầng và chỉ rõ những hạn chế của mô hình này và đề xuất 4 nhóm giải pháp có liên quan theo mục tiêu nghiên cứu của bài viết. Hạn chế cơ bản là chưa nghiên cứu quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các NHTM trong giai đoạn hiện nay.

Bài viết “Xây dựng khuôn khổ quản trị rủi ro hoạt động hiệu quả tại NHTM Việt Nam” của tác giả Trần Thị Minh Trang đăng trên tạp chí ngân hàng số 5/2014. Thành công cơ bản trong bài viết là lượng hóa rủi ro hoạt động của NHTM theo cách tiếp cận của Basel II, thiết kế mô hình quản trị rủi ro hoạt động, làm rõ thực trạng quản trị rủi ro hoạt động của các NHTM Việt Nam và khả năng cũng như kiến nghị áp dụng.


Bài viết “Hạn chế rủi ro tín dụng cho hệ thống ngân hàng thông qua áp dụng Basel II nhìn từ kinh nghiệm quốc tế” của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh (trang 36-38) đăng trên tạp chí thị trường tiền tệ số 20 (413) tháng 10/2014. Thành công của bài viết cho thấy rõ tại Singapore đặt ra tỷ lệ vốn của quốc đảo này cao so với mức tối thiểu quốc tế để củng cố uy tín cho vị trí trung tâm tài chính. Hạn chế của bài viết là tập trung nghiên cứu áp dụng Basel II tại Singapore và hầu như không có nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các NHTM giai đoạn hiện nay.

Bài viết “Quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam và những vấn đề đặt ra” của PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng - Đại học Kinh tế quốc dân đăng trên tạp chí Tài chính 23/9/2017. Nội dung bài viết khái quát thực tế quản trị rủi ro hiện nay và nhận diện những vấn đề cụ thể đặt ra trong thời gian tới đối với NHTM Việt Nam. Hạn chế cơ bản của bài vết là không đi sâu vào quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Bài viết “Hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng” của tác giả Đức Nghiêm, Thời báo ngân hàng tổng hợp kết quả Hội thảo “Cải thiện môi trường kinh doanh thông qua cải cách quản trị rủi ro tín dụng trong thương mại và đầu tư” ngày 18/01/2018, một trong những nội dung quan trọng của Hội thảo là: chất lượng thông tin tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong quản trị rủi ro tín dụng và việc xếp hạng tín dụng của CIC theo chuẩn quốc tế có thể sử sụng làm chuẩn tham chiếu với kết quả xếp hạng tín dụng của các tổ chức tín dụng nhằm phòng ngừa rủi ro trong quản trị cấp tín dụng. Hạn chế cơ bản của Hội thảo và bài viết là chưa nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Bài viết “Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam” của TS. Nguyễn Thị Loan đăng trên tạp chí ngân hàng số tháng 01/2018. Thành công cơ bản của bài viết là thông qua số liệu về thực trạng tăng tỷ trọng tín dụng, lợi nhuận, tỷ lệ nợ xấu, hệ số CAR của cả hệ thống NHTM và một số NHTM được lựa chọn đã phân tích một số ưu, khuyết điểm, hạn chế của hoạt động quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng của NHTM nói riêng, đề xuất 3 nhóm giải pháp theo mục tiêu nghiên cứu của bài viết.

Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 4

Hầu hết các nghiên cứu trên nghiên cứu quản trị rủi ro tín dụng chung, chưa đưa ra khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại NHTM Việt Nam; chưa nghiên cứu cụ thể đối với đối tượng là khách hàng doanh nghiệp. Trong khi các doanh nghiệp ở nước ta thuộc các lĩnh vực khác nhau đã và đang phát triển một cách nhanh chóng. Sự phát triển của các doanh nghiệp đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho rất nhiều lao động của cả nước, tăng thu nhập cá nhân, giảm tỷ lệ đói nghèo, góp phần ổn định và phát triển kinh tế.


1.1.3. Nhận xét chung

Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cũng như các bài viết đăng trên tạp chí, những đề tài khoa học cấp ngành... hầu như tập trung vào nghiên cứu về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại một hoặc một số NHTM hoặc về quản lý rủi ro tín dụng nói chung, ít có nghiên cứu riêng về đối tượng khách hàng là doanh nghiệp.... Tuy nhiên nhìn chung cho đến nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách tổng thể và hệ thống có tính toàn diện về quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại NHTM, có tính cập nhật đến thời điểm thực hiện tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng theo phê duyệt của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Các công trình cũng chủ yếu sử dụng phương pháp định tính, hoặc có số liệu khảo sát điều tra nhưng chưa chạy mô hình kinh tế lượng để nghiên cứu khảo sát khoa học khách quan với các biến độc lập giả định. Đây chính là khoảng trống nghiên cứu của Luận án của tác giả với tên đề tài: Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các NHTM Việt Nam.

1.2. Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại

1.2.1. Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại

1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp

Quan hệ tín dụng đã có từ rất lâu trong quá trình phát triển của lịch sử. “Nó ra đời, tồn tại do đòi hỏi khách quan của quá trình luân chuyển vốn nhằm giải quyết hiện tượng thừa và thiếu vốn diễn ra thường xuyên giữa các chủ thể trong nền kinh tế” (57,2001) [8]. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, hình thức biểu hiện của tín dụng ngày càng trở nên “đa dạng và phức tạp”, do vậy trên thực tế các nhà kinh tế cũng có nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về tín dụng. Tuy nhiên dưới hình thức nào thì quan hệ này cũng bộc lộ chung một bản chất và có thể hiểu tín dụng một cách khái quát như sau:

“Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế liên quan đến các giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (doanh nghiệp), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho doanh nghiệp sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán” (Nguyễn Duệ, 2002. Giáo trình Ngân hàng trung ương. Hà Nội: Nhà xuất bản thống kê).

Có nhiều loại tín dụng, như tín dụng nhà nước, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng cá nhân và tín dụng ngân hàng. GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2010) “Quản trị rủi ro


trong kinh doanh ngân hàng” đã đưa ra: “Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.

Tín dụng ngân hàng là “quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng (bên cho vay) với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân (bên đi vay), dưới hình thức ngân hàng (bên cho vay) đứng ra huy động vốn bằng tiền và cấp tín dụng cho bên đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện số vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.

Xét về bản chất, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả với các

đặc trưng sau:

Thứ nhất, tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm hai hình thức là tiền hay hiện vật.

Thứ hai, tín dụng phải tuân thủ theo nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay (khách hàng doanh nghiệp) sử dụng phải có cơ sở để tin rằng doanh nghiệp sẽ trả đúng hạn. Các Mác viết “Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải đã được bỏ ra để thanh toán, cũng không phải bị đem bán đi, mà chỉ đem cho vay, tiền chỉ được đem nhượng lại với điều kiện một là nó sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định” (26,2007) [16].

Thứ ba, giá trị được hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác là doanh nghiệp phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Về vấn đề này, Các Mác viết: “Đem tiền cho vay với tư cách là một vật có đặc tính là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm lên trong quá trình vận động” (26,2007) [28].

Thứ tư, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện, có nghĩa là doanh nghiệp cam kết hoàn trả vô điều kiện cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán.

Đối với doanh nghiệp, điều kiện để được cấp tín dụng ngân hàng là:

- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật;

- Có mục đích vay vốn hợp pháp;


- Có khả năng tài chính đảm bảo khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết;

- Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả;

- Thực hiện quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và NHNN.

Xét về mối quan hệ dân sự thì tín dụng NHTM đối với doanh nghiệp là mối quan hệ dân sự giữa hai chủ thể là NHTM và một bên là doanh nghiệp, và khách thể là đồng tiền giao dịch (thông thường là VNĐ). Hai chủ thể đó là: Chủ thể thứ nhất là NHTM là một định chế tài chính - tín dụng hoạt động trên cơ sở Luật các Tổ chức tín dụng và Luật doanh nghiệp; chủ thể thứ hai là các doanh nghiệp được hiểu là đơn vị sản xuất kinh doanh cung ứng dịch vụ nhằm thực hiện một hoặc nhiều hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ nhằm kiếm lời.

Xét trên phương diện doanh nghiệp thì cả hai chủ thể đều là tổ chức có tên riêng, có tài sản giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Vì thế cả hai chủ thể đều bình đẳng trên mọi phương diện và cùng phân chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro khi kinh doanh bị rủi ro.

1.2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp

Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện ở một số mặt sau:

Thứ nhất, tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội: Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của doanh nghiệp trong xã hội. Nhờ đó mà các doanh nghiệp có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực sản xuất của xã hội.

Một hệ thống các hình thức tín đụng đa dạng không những thỏa mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh.

Các nguồn tín dụng được cung ứng luôn đi kèm với các điều kiện tín dụng để hạn chế rủi ro và với áp lực phải trả cả gốc và lãi vay buộc người đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn, đến khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh.

Thứ hai, tín dụng là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô: Các mục tiêu vĩ vô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Tín dụng trở thành một công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện các mục tiêu vĩ mô này. Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín


dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế cả về quy mô và kết cấu, đồng thời cũng ảnh hưởng tới các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết.

Thứ ba, tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội: Thông qua các hình thức tín dụng ưu đãi,...cho một số loại đặc thù hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở những địa điểm cụ thể sẽ góp phần nâng cao điều kiện sống và tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế của các doanh nghiệp này. Khi sử dụng vốn tín dụng ưu đãi, các đối tượng chính sách này buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn, kết hợp với các ưu đãi có được, điều kiện tài chính của họ sẽ được cải thiện, từng bước dần có thể độc lập với nguồn vốn tài trợ”. Đó chính là mục đích chính của việc sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.

1.2.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng

Thông thường tín dụng được phân loại theo một số tiêu chí sau:

Một là: Căn cứ vào thời gian tín dụng được chia làm 3 loại

- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm và được dùng để: bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp như: bổ sung ngân quỹ, ứng trước tiền hàng, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, duy trì hàng tồn kho... . Đây là loại tín dụng có mức độ rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được các rủi ro về lãi suất, lạm phát cũng như sự bất ổn của môi trường kinh tế vĩ mô và thị trường, vì thế lãi suất thường thấp hơn các loại tín dụng khác (Nguyễn Văn Tiến, 2010. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng).

- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 đến 5 năm và sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang thiết bị, mở rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh (Nguyễn Văn Tiến, 2010).

- Tín dụng dài hạn: Là các khoản tín dụng có thời gian cho vay từ 5 năm trở lên. Đây là hình thức ngân hàng cấp tín dụng cho các dự án mua sắm dây truyền thiết bị đồng bộ, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.... Tài sản thế chấp chủ yếu là tài sản hình thành từ vốn vay. (Nguyễn Văn Tiến, 2010).

Tín dụng trung hạn, dài hạn còn là nguồn quan trọng hình thành nên vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp mới thành lập.


Hai là: Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng

- Tín dụng bằng tiền: Là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tiền. Tín dụng bằng tiền gọi là vay.

- Tín dụng bằng tài sản: Là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tài sản.

Hình thức tín dụng này chính là cho thuê tài chính.

- Tín dụng bằng uy tín: Là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng uy tín.

Hình thức tín dụng này chính là bảo lãnh ngân hàng.

Ba là: Căn cứ vào xuất xứ tín dụng

- Tín dụng trực tiếp: Là hình thức tín dụng, trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, đồng thời doanh nghiệp hoàn trả nợ vay trực tiếp cho ngân hàng.

- Tín dụng gián tiếp: Là hình thức cấp tín dụng thông qua trung gian như: tín dụng ủy thác, tín dụng thông qua tổ chức đoàn thể.

Bốn là: Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại

ở trên (Ví dụ tín dụng kinh doanh chứng khoán...).

1.2.1.4. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp

- Là mối quan hệ tín dụng ngân hàng giữa hai chủ thể tham gia một bên là NHTM và một bên là các doanh nghiệp. Khách thể là tiền tệ (nội tệ hoặc ngoại tệ) do ngân hàng huy động vốn tức là NHTM đóng vai trò trung gian vừa huy động vốn vừa cho vay.

- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa của doanh nghiệp, mặc dù vẫn phải đảm bảo nguyên tắc tín dụng thực chất là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi. Vì vậy, sự tin tưởng đóng vai trò quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.

- Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp thường là những khoản vốn lớn

được sử dụng cả nội tệ và ngoại tệ, cả ngắn hạn và trong dài hạn.

Đây là những đặc điểm quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vì nó tác động lên quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trong suốt quá trình cho vay, thu nợ của NHTM.

Hoạt động tín dụng mà ngân hàng thực hiện có ý nghĩa quan trọng đối với cả ngân hàng và nền kinh tế, nhưng hoạt động này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đó là


những yếu tố phát sinh từ nền kinh tế, các doanh nghiệp có nhu cầu nhận tài trợ và năng lực của bản thân mỗi ngân hàng.

1.2.2. Rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại

1.2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp

“Rủi ro” đã được nhiều nhà kinh tế học định nghĩa theo nhiều cách thức khác nhau. Frank Knight (1962), một học giả người Mỹ, đầu thế kỷ XX định nghĩa “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”. Allan Willett (1963) cho rằng: “rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố không mong đợi”, Inrving Perfer (1964) thì “rủi ro là tổng hợp của những ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất”. Một học giả người Anh là Marillic Hurt Mr Carty (1964) quan niệm “rủi ro là một tình trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được”. Theo ông kinh nghiệm hoạt động của một doanh nghiệp có thể cung cấp chứng cứ của tần số các biến cố riêng biệt trong quá khứ và do đó cho phép các nhà quản trị doanh nghiệp xác định được phân bố xác suất xuất hiện các biến cố trong tương lai.

Theo từ điển tài chính của P.H Collin (1964), rủi ro có thể được định nghĩa là khả năng gánh chịu một thiệt hại của chủ thể. Theo Bernard Manso, “rủi ro là tác động của những biến cố xảy ra trong tương lai lên giá trị ròng của một chủ thể kinh tế hay một danh mục tài sản mà khả năng xảy ra biến cố đó có thể dự đoán trước nhưng không thể dự đoán chính xác biến cố xảy ra như thế nào. Theo quan điểm của các học giả Mỹ Frank Knight (1962), “rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất”. Rủi ro được đo lường bằng độ lệch chuẩn giữa lợi nhuận thực tế của chủ thể và mức lợi nhuận dự kiến. Mức biến động lợi nhuận càng lớn nghĩa là sự không chắc chắn càng nhiều thì nguy cơ rủi ro cao.

Theo Ủy ban Basel (2005) thì “Rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay (doanh nghiệp) hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thỏa thuận”. Cũng theo Ủy ban này, một định nghĩa khác được nêu ra là “Rủi ro thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả gốc và/hoặc lãi”.

Còn theo tài liệu “Financial Institutions Management - A modern perspective”, A.Sauders và H.Lange (2005) định nghĩa “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm năng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng (doanh nghiệp), nghĩa là luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản vay của ngân hàng không thể được thực hiện cả về số lượng và thời hạn”.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí