Nội Dung Kt-Ksnb Hoạt Động Hoạt Động Kinh Doanh Tại Nhtm


16. Nội dung KT-KSNB hoạt động hoạt động kinh doanh tại NHTM


Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ qui trình nghiệp vụ và hạn mức hoạt động kinh doanh được phê duyệt


215/278


77,34%

Kiểm tra, giám sát các khu vực có nguy cơ rủi ro cao nhằm phát hiện sớm rủi ro


0/278


0%

Chủ yếu là kiểm tra, giám sát việc tuân thủ qui trình nghiệp vụ

33/278

11,87%

Chủ yếu là kiểm tra, giám sát các khu vực có nguy cơ rủi ro cao nhằm phát hiện sớm rủi ro


0/278


0%

Kết hợp kiểm tra, giám sát tuân thủ và kiểm tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

30/278

10,79%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam - 17

17. Điều kiện cần thiết của cán bộ KT-KSNB


Có chuyên môn ở vị trí KT-KSNB

0/278

0%

Có đạo đức nghề nghiệp

0/278

0%

Có kinh nghiệm và chuyên môn ở vị trí KT-KSNB

0/278

0%

Có đạo đức nghề nghiệp, có kinh nghiệm và chuyên môn ở vị trí KT-KSNB

28/278

10,07%

Có đạo đức nghề nghiệp, có kinh nghiệm, chuyên môn ở vị trí KT- KSNB, có khả năng làm việc độc lập với cường độ cao.


250/278


89,93%

18. Số lượng cán bộ KT-KSNB tại NHTM


Quá ít

0/278

0%

Ít

91/278

32,73%

Đủ

180/278

64,75%

Nhiều

7/278

2,52%

Quá nhiều

0/278

0%

19. Triển khai quản lý rủi ro đạo đức tiệm cận thông lệ quốc tế


Không có thách thức

7/278

2,52%

Thách thức rất nhỏ

13/278

4,68%

Bình thường

20/278

7,19%

Có thách thức

116/278

41,73%

Thách thức rất lớn

122/278

43,88%


2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TRONG RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

2.3.1. Những kết quả đạt được

2.3.1.1. Về phía cơ quan quản lý

Thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng, trong những năm qua, NHNN Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong công tác quản lý, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và các TCTD khác. Xét khía cạnh quản lý vấn đề rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng đã đạt được những kết quả như sau:

Một là, đã ban hành quy chế quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD, trong đó có quy định về Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu phù hợp thông lệ quốc tế và những thay đổi môi trường hoạt động kinh doanh ngân hàng (Quyết định 488/2000/QĐ-NHNN. Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, Thông tư 13/2010/TT-NHNN, thông tư 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của Thống đốc NHNN…)

Hai là, đã sử dụng các biện pháp hành chính: quy định kiểm soát trần lãi suất, quy định giới hạn tăng trưởng tín dụng... đối với các TCTD trong điều kiện nền kinh tế có những biến động nhằm ổn định thị trường, hạn chế rủi ro đạo đức, cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD.

Ba là, công tác thanh tra, giám sát về lãi suất và hoạt động huy động, cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã được thực hiện quyết liệt, lập lại kỷ cương thị trường, đặc biệt trong năm 2011. Các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng phản ánh đúng bản chất; tạo ra sự phân hóa giữa nhóm TCTD hoạt động lành mạnh, có hiệu quả với nhóm các TCTD hoạt động kém hiệu quả. Việc làm này buộc các TCTD cần chú trọng quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng, khuyến khích các ngân hàng tự nguyện liên kết, hợp nhất, sáp nhập để tăng cường sức cạnh tranh, qua đó góp phần từng bước lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và tiến tới cơ cấu lại hệ thống ngân hàng trong tương lai.

Bốn là, cơ quan thanh tra, giám sát NHNN cũng chỉ ra những sai phạm trong hoạt động tín dụng ngân hàng xuất phát từ nhiều nguyên nhân như, một số


đơn vị ngân hàng vì sức ép lợi nhuận, sức ép thành tích nên đã nới lỏng tín dụng, bỏ qua một số trình tự, thủ tục, quy định để cho vay; không chuyển nhóm nợ theo quy chế; cho vay không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đảm bảo không đủ thủ tục.

2.3.1.2. Về phía các Ngân hàng thương mại

Các NHTM Việt Nam đã quan tâm đến công tác quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Đối với vấn đề rủi ro đạo đức, một số ngân hàng đã bước đầu thực hiện quản lý rủi ro hoạt động một cách bài bản: (i) Thành lập bộ phận chuyên trách quản lý rủi ro hoạt động thuộc Khối quản lý rủi ro; (ii) Xây dựng chính sách và quy trình quản lý rủi ro hoạt động; (iii) Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá rủi ro hoạt động và bước đầu xây dựng cơ sở dữ liệu tổn thất về rủi ro hoạt động; (iv) Thực hiện rà soát, tự đánh giá rủi ro hoạt động theo định kỳ.

Các NHTM đã quan tâm hơn đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cả về trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Một số NHTM đã xây dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện công việc của người lao động và có chế độ đãi ngộ phù hợp.

Các NHTM đã có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối với các đối tượng có hành vi rủi ro đạo đức và có sai phạm trong hoạt động kinh doanh, kể cả các cán bộ quản lý và nhân viên. Một số ngân hàng đã xây dựng cẩm nang kinh nghiệm rút ra từ những sai phạm, tổ chức học tập trong nội bộ nhằm mục tiêu ngăn ngừa và tránh mắc sai phạm trong toàn thể nhân viên.

Một số NHTM đã bước đầu có sự thay đổi về mô hình tổ chức, hoàn thiện quy trình nội bộ theo hướng phân tách các chức năng: kinh doanh (Front Office), quản lý rủi ro (Middle Office) và đạo đức (Back Office) nhằm tránh sự xung đột lợi ích giữa các chức năng và hạn chế hành vi rủi ro đạo đức trong cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng.

2.3.2. Những hạn chế

2.3.2.1. Về phía cơ quan quản lý

Vấn đề cơ bản của Việt Nam trong thời gian qua là tiến trình cải cách ngân hàng trung ương, cơ quan giám sát, cũng như việc xây dựng và thực thi các công cụ giám sát hệ thống ngân hàng chậm hơn tiến trình mở cửa và tự do hoá.


Giống như chiếc xe được tăng tốc ngày một nhanh hơn, nhưng hệ thống phanh an toàn không trang bị tương ứng nên tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Hoạt động thanh tra ngân hàng, kiểm tra, giám sát và đảm bảo an toàn hệ thống của NHNN chưa thực sự có hiệu quả, thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Một là, khả năng phát hiện và xử lý vi phạm của cơ quan thanh tra đối với các ngân hàng có sai phạm chưa cao, thể hiện: (i) số vi phạm được phát hiện và xử lý không đáng kể so với những vi phạm xảy ra trong thực tế; (ii) Những phát hiện về đa số những vụ việc vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng hầu như không xuất phát từ hoạt động giám sát của cơ quan thanh tra NHNN mà chủ yếu từ cơ quan cảnh sát điều tra và hoạt động khiếu nại tố cáo của người bị hại. Điều này đặt ra câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ của các NHTM và hiệu lực của hệ thống giám sát ngân hàng trong phát hiện những hành vi vi phạm; (iii) Có một số loại vi phạm xảy ra phổ biến nhưng cơ quan thanh tra biết mà không thể xử lý. Ví dụ như những vi phạm quy định liên quan đến trần lãi suất và giao dịch ngoại hối; (iv) Việc xử lý vi phạm chưa triệt để, chưa đạt được hiệu lực cưỡng chế thực thi mong muốn do chế tài và thẩm quyền xử lý còn nhiều lỗ hổng.

Hai là, năng lực của cơ quan thanh tra trong ngăn ngừa và phòng tránh vi phạm của các ngân hàng vẫn còn hạn chế do những bất cập của khung pháp lý về xử phạt vi phạm và sự thiếu hiệu quả của hoạt động giám sát. Tình trạng lách luật thành công xảy ra phổ biến, cho thấy khả năng ngăn ngừa vi phạm của cơ quan thanh tra chưa cao. Chẳng hạn, khi giá ngoại tệ trên thị trường tự do có nhiều biến động, các NHTM “lách” quy định về quản lý ngoại hối của NHNN một cách ngoạn mục với chiêu “sử dụng ngoại tệ thứ ba” và “phí thu mua ngoại tệ”. Do NHNN chỉ quy định biên độ dao động của VND so với USD nhưng không quy định biên độ dao động tỷ giá giữa các ngoại tệ với nhau. Do đó, các NHTM đã ép doanh nghiệp phải mua USD thông qua ngoại tệ thứ ba để từ đó tăng tỷ giá bằng hoặc vượt giá USD tại thị trường tự do. Đối với quy định về trần lãi suất cho vay cũng vậy, nhiều NHTM thực hiện cho doanh nghiệp vay vốn, nhưng chỉ được giải ngân từ 70 - 75% số tiền được vay. Phần 25

- 30% còn lại thì NHTM buộc các doanh nghiệp phải ký quỹ vay vốn. Như vậy,


doanh nghiệp trên thực tế chỉ nhận được 70 - 75% tổng giá trị khoản vay, nhưng phải chịu đủ 100% lãi suất cho toàn khoản vay. Ngược lại, ngân hàng cho vay không những hưởng đủ lãi suất khoản vay trên 70 - 75% tổng giá trị món vay, trong khi vừa chiếm dụng và hưởng toàn bộ lợi tức trên khoản giá trị 20 - 25% tổng giá trị khoản đã giữ lại của doanh nghiệp. Có nghĩa ngân hàng đã ăn tới 2 lần trên một đồng vốn cho vay.

2.3.2.2. Về phía các Ngân hàng thương mại

Nhận thức về ý nghĩa, nội dung, nguyên tắc về quản trị công ty của nhiều NHTM chưa đầy đủ

Tại nhiều NHTM, đặc biệt là các NHTM cổ phần, đội ngũ lãnh đạo còn hạn chế về trình độ tổ chức, công tác chuyên môn, thậm chí còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lũng đoạn, tư lợi cho cá nhân, gia đình và bạn bè. Hiện tượng đầu tư nhiều vào các công ty con của ngân hàng mà không kiểm soát triệt để cũng gây gánh nặng nợ xấu gia tăng cho cả hệ thống.

Công tác kiểm soát nội hộ, kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng đang còn nhiều hạn chế

Công tác kiểm soát nội hộ, kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng đang còn nhiều hạn chế như thiếu chiến lược rõ ràng và dài hạn cho kiểm toán nội bộ, chưa có quy trình kiểm toán nội bộ. Điều này có thể phản ánh một thực tế là kiểm toán nội bộ là một lĩnh vực mới ở Việt Nam và chưa có chuẩn mực và hướng dẫn thực hành nào chính thức được ban hành. Kể cả đối với những ngân hàng đã có qui trình kiểm toán nội bộ, tính hợp lý và đầy đủ của qui trình này vẫn là một câu hỏi lớn.

Như vậy, trên thực tế có thể phát sinh sự chồng chéo trong sử dụng nguồn nhân lực và quá trình tác nghiệp, đồng thời hạn chế tính độc lập, hiệu quả hoạt động của các bộ phận này. Có thể đưa ra một số nhận xét về hạn chế trong công tác kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng như sau:

- Hiệu quả hoạt động của bộ phận này không cao, chưa thực hiện đúng vai trò của công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ;

- Nguồn nhân lực cả về chất lượng và số lượng thực hiện công tác kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ tại các tổ chức tín dụng chưa ở mức mong muốn,


còn thiếu và yếu về chuyên môn nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm và kiến thức về công nghệ thông tin, chưa được đào tạo bài bản. Gần 70% các ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng nói rằng họ chỉ có ít hơn 20 kiểm toán viên nội bộ;

- Công tác kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ mới chỉ hướng đến việc đáp ứng các quy định của Nhà nước mà chưa hướng tới mục tiêu phát hiện rủi ro, đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống nên hoạt động của bộ phận này còn mang tính hình thức, né tránh va chạm;

- Chưa có hệ thống phù hợp để đánh giá hiệu quả hoạt động của kiểm toán nội bộ, hệ thống quản lý rủi ro của bản thân ngân hàng chưa hợp lý, chưa có các mẫu báo cáo được chuẩn hóa, kiểm toán nội bộ hầu như chưa được hỗ trợ bởi các công cụ cần thiết.

Thực hiện quy trình nghiệp vụ, thực hiện kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kỷ luật thị trường chưa nghiêm túc

Cơ chế xử lý những ngân hàng yếu kém, các sai phạm trong hoạt động ngân hàng không mạnh mẽ và chưa đủ sức răn đe. Thị trường tiền tệ Việt Nam đang chịu ảnh hưởng bởi một số ngân hàng yếu kém - những ngân hàng quản trị rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro tín dụng không tốt, rơi vào nguy cơ mất khả năng thanh toán (cho dù các chỉ số về an toàn vốn về mặt hình thức vẫn đảm bảo) tìm mọi cách xé rào huy động vốn với lãi suất cao, gây phản ứng dây chuyền làm cả hệ thống phải lao theo cuộc đua lãi suất. Ví dụ, theo khuôn khổ pháp lý hiện hành, tiền gửi không kỳ hạn lãi suất 14%, hoặc tiền gửi kỳ hạn ngắn có lãi suất 14%/năm..., với lãi mẹ đẻ lãi con tính gộp trong năm chắc chắn vượt trần lãi suất 14%/năm tính theo phương pháp trả lãi sau vào cuối kỳ, là những sản phẩm vi phạm quy định pháp lý hiện hành... Tuy nhiên, các TCTD có những sản phẩm như vậy không hề bị xử lý? Chính phủ và NHNN cũng cần lưu ý, trên thị trường tiền tệ, tình trạng kỷ luật thị trường không được tuân thủ nghiêm túc; cơ chế xử lý yếu và chưa đủ sức răn đe đã tồn tại vài năm nay, theo đó là tình trạng khách hàng gửi tiền luôn có điều kiện để “mặc cả lãi suất” với ngân hàng và những cuộc đua lãi suất công khai hoặc ngấm ngầm thỉnh thoảng lại diễn ra... Do đó, chỉ khi cơ quan nhà nước nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, kiên quyết và có giải pháp đồng bộ mới có thể thiết lập được trật tự, kỷ cương.


Thông tin hoạt động của ngành Ngân hàng chưa được minh bạch:

Với Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN, NHNN đã đi một bước cơ bản để thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng; những thông tin trọng yếu về tình hình hoạt động, tình hình tài sản, công nợ và các thông tin trọng yếu về tình hình hoạt động, tình hình tài sản, công nợ và các mức độ rủi ro tài chính hiện có tại thời điểm lập báo cáo tài chính của TCTD được yêu cầu công bố kịp thời, công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, cũng tương tự như hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, tính minh bạch thông tin về hoạt động kinh doanh của TCTD vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân trước hết thuộc về chế độ kế toán Việt Nam vẫn còn khoảng cách đáng kể so với chuẩn mực quốc tế, nhất là những chuẩn mực kế toán đặc thù cho hoạt động ngân hàng

- chuẩn mực về các công cụ tài chính lại chưa được ban hành; (ii) với những sản phẩm không chuẩn, những xảo thuật trong nghiệp vụ kế toán cũng như trong nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ huy động tiền gửi, nghiệp vụ mua bán nợ..., báo cáo tài chính của một số TCTD đã không còn trung thực hợp lý; (iii) để minh bạch, TCTD cần phải tổ chức kế toán quản trị và một số thông tin thuộc kế toán quản trị cũng cần phải được công bố công khai, ví dụ như giá thành bình quân nguồn vốn huy động; lợi nhuận bộ phận của từng loại hình kinh doanh...

Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng:

Thông tin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, giúp ngân hàng xác định khá chính xác về đối tượng vay vốn, tính cách, uy tín, năng lực tài chính của khách hàng và tính khả thi của dự án, phương án. Thực tế, thông tin tín dụng vẫn chưa được các NHTM Việt Nam khai thác triệt để phục vụ cho các giai đoạn của quy trình tín dụng do chưa có biện pháp khai thác và xử lý thông tin một cách hiệu quả nhất và các văn bản pháp luật ở Việt Nam thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và sửa đổi nhưng lại truyền tải đến ngân hàng, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt các văn bản pháp luật mới để hoạch định chính sách tín dụng cho phù hợp, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Hơn nữa, thủ tục cho vay chưa được thiết kế phù hợp với từng nhóm khách hàng, từng loại cho vay nên khi khách hàng đến vay vốn, NHTM chỉ hướng dẫn chung chung mà không hướng dẫn chi tiết, đầy đủ những thủ tục cần


thiết để khách hàng có thể chuẩn bị một lần. Ngoài ra, thông tin hai chiều giữa các NHTM Việt Nam với nhau và với trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN chưa thông suốt làm giảm hiệu quả hoạt động của hoạt động thông tin tín dụng, ảnh hưởng chất lượng nguồn dữ liệu, chưa đáp ứng thông tin ngày càng tăng của các ngân hàng. Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, giá cả của thông tin khá cao hạn chế khả năng tiếp cận thông tin của NHTM Việt Nam. Các NHTM Việt Nam phải dựa nhiều vào các tổ chức nước ngoài trong việc tìm kiếm, thẩm định thông tin do các tổ chức trong nước cung cấp thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu. Giá thông tin cao buộc ngân hàng phải cõng thêm một khoản chi phí lớn, đồng nghĩa với việc giảm hiệu quả trong kinh doanh.

Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:

Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.

2.3.3. Nguyên nhân

2.3.3.1. Nguyên nhân về phía cơ quan quản lý

Sở dĩ có những hạn chế nêu trên là do những nguyên nhân cơ bản như sau:

Thứ nhất, mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu thực hiện giám sát dựa trên cơ sở rủi ro. Tổ chức bộ máy của Thanh tra ngân hàng phân tán và được phân bổ chưa hợp lý. Việc thanh tra chi nhánh nằm trong bộ máy của NHNN tỉnh, thành phố khiến cho thanh tra chi nhánh cũng được phân bố theo địa giới hành chính bất kể số lượng các TCTD và yêu cầu về thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng trên địa bàn. Điều

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí