Định Hướng Tăng Cường Quản Lý Rủi Ro Đạo Đức Trong Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


này dẫn đến có những địa bàn nhiệm vụ thanh tra rất nặng nề còn ở các chi nhánh khác thì ngược lại trong khi quyền hạn, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của các thanh tra chi nhánh là như nhau. Việc điều phối lực lượng cán bộ thanh tra trong toàn hệ thống để triển khai chương trình công tác thanh tra chung, đặc biệt là các chương trình thanh tra trọng điểm, chiến dịch thanh tra có quy mô lớn là khó thực hiện được. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn.

Thứ hai, khuôn khổ pháp lý về thanh tra ngân hàng có nhiều bất cập và chưa tạo điều kiện thuận lợi cho Thanh tra ngân hàng hoạt động có hiệu quả và khuyến khích áp dụng các thông lệ quốc tế về giám sát ngân hàng. Các quy định an toàn hoạt động ngân hàng còn nhiều bất cập. Về mặt hình thức pháp lý, nhiều quy định phù hợp với chuẩn mực Basel 1 và thông lệ quốc tế nhưng trên thực tế chưa được tuân thủ một cách đầy đủ và triệt để; thiếu các quy định hướng dẫn các tổ chức tín dụng xây dựng và vận hành các hệ thống quản trị rủi ro nội bộ. Bên cạnh đó, những chế tài đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cũng quá thấp và không đủ sức khiến các đối tượng của hoạt động quản lý và giám sát phải “e ngại”. Mức phạt tiền 3 triệu đồng- 9 triệu đồng được áp dụng với hành vi không thực hiện kiểm toán độc lập về hoạt động nghiệp vụ; khung hình phạt từ 200 ngàn đồng đến tối đa 20 triệu đồng đối với hành vi vi phạm các quy định về cho vay và vi phạm về quản lý ngoại hối. Giống như các chế tài trên thị trường chứng khoán, các biện pháp xử phạt hành chính đối với hoạt động tín dụng, ngân hàng cũng bị giới hạn ở mức xử phạt tối đa 50 triệu đồng và có phần còn nhẹ tay hơn so với khu vực thị trường chứng khoán. Điều này cho thấy rằng trên khu vực ngân hàng, cả khung pháp lý lẫn hoạt động giám sát còn chưa đủ để các đối tượng quản lý phải “sợ” pháp luật. Vì thế, tình trạng vi phạm và tái diễn các hành vi vi phạm và tình trạng “lách luật” trở nên phổ biến.


Thứ ba, hạn chế về nguồn lực luôn là rào cản tiến trình đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Hiện tại, năng lực, trình độ nghiệp vụ của một bộ phận lớn cán bộ thanh tra còn nhiều hạn chế so với yêu cầu tiếp cận và thực thi các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng, thậm chí ngay cả đối với yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Lực lượng cán bộ thanh tra ngân hàng vừa thừa về số lượng, vừa thiếu về chất lượng; lực lượng thanh tra chi nhánh chỉ có khoảng 51% là thanh tra viên các cấp, một số cán bộ thanh tra ở NHNN chi nhánh còn chưa có trình độ đại học. Trình độ ngoại ngữ, tin học, hiểu biết về quản trị rủi ro, các dịch vụ ngân hàng mới và các kỹ năng về giám sát rủi ro hoạt động ngân hàng của cán bộ thanh tra ngân hàng rất hạn chế. Trong khi đó, chính sách quản lý và đào tạo cán bộ, hệ thống khuyến khích chưa hợp lý. Với chính sách quản lý cán bộ, đặc biệt là chế độ lương, thưởng, quyền lợi và đãi ngộ cán bộ của NHNN không thể thu hút và phát triển nguồn nhân lực bền vững cho thanh tra ngân hàng, khó đảm bảo các thanh tra viên thực thi nhiệm vụ một cách khách quan trong môi trường làm việc nhạy cảm và chịu áp lực cao. Công tác đào tạo cán bộ thanh tra chưa được quan tâm đúng mức. Với chất lượng cán bộ và chính sách quản lý cán bộ còn nhiều hạn chế như vậy, những cố gắng đổi mới thanh tra ngân hàng đã không đem lại kết quả như mong muốn.

Thứ tư, hạ tầng cơ sở hỗ trợ cho việc thanh tra, giám sát ngân hàng có hiệu quả chưa được đảm bảo. NHNN chưa thiết lập được cơ sở dữ liệu tập trung phục vụ giám sát ngân hàng được kết nối với cơ sở dữ liệu của tổ chức tín dụng. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và các cơ quan giám sát tài chính khác có liên quan. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, thống kê, báo cáo còn nhiều bất cập dẫn đến số lượng, chủng loại chỉ tiêu thống kê, báo cáo chưa hợp lý, chất lượng và độ tin cậy của thông tin chưa cao để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá hợp lý rủi ro, tình hình tổ chức, quản trị và hoạt động của tổ chức tín dụng. Trung tâm Thông tin tín dụng là một phần quan trọng trong hệ thống thể chế giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, song thiếu cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin một cách hữu hiệu giữa Trung tâm này với Thanh tra ngân hàng (Trung tâm chủ yếu phục vụ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng hơn là phục vụ hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN).


Thứ năm, nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm được đổi mới, phương thức thanh tra tuân thủ ngày càng tỏ ra bất cập so với yêu cầu giám sát an toàn hoạt động ngân hàng trong điều kiện các tổ chức tín dụng đang phát triển rất nhanh về quy mô, mức độ phức tạp và đa dạng về dịch vụ, đồng thời tiềm ẩn rủi ro. Thanh tra tại chỗ (thanh tra tuân thủ) vẫn là phương pháp chủ yếu song hiệu quả còn hạn chế trong khi giám sát từ xa chưa thực sự trở thành công cụ hữu hiệu giúp Thanh tra ngân hàng cảnh báo sớm, ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh. Thanh tra tại chỗ chủ yếu chỉ có khả năng phát hiện các vi phạm pháp luật và tập trung xử lý các vi phạm phát hiện được, các rủi ro đã xảy ra trên thực tế, ví dụ như vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng, thất thoát tài sản, kinh doanh thua lỗ. Trong khi đó, hoạt động giám sát từ xa chưa có tác dụng cảnh báo sớm rủi ro gây mất an toàn hoạt động và an toàn của hệ thống; hệ thống tiêu chí giám sát và chỉ tiêu thống kê chưa hợp lý, chưa có hệ thống cảnh báo sớm các rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng: giám sát an toàn vĩ mô là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giám sát ngân hàng chưa được triển khai. Mục tiêu và phương thức phối hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ chưa có hiệu quả. Giám sát từ xa chưa hỗ trợ đắc lực thanh tra tại chỗ thông qua việc đưa ra các dấu hiệu cảnh báo sớm, xác định khu vực tập trung rủi ro để làm cơ sở xác định phạm vi, nội dung thanh tra tại chỗ và lập kế hoạch giám sát hợp lý để giảm thiểu rủi ro.

Thứ sáu, thiếu cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp hành động một cách có hiệu quả giữa Thanh tra ngân hàng với các cơ quan thanh tra giám sát tài chính trong và ngoài nước trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Thanh tra ngân hàng chưa có cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin và phối hợp với các cơ quan Thanh tra, giám sát tài chính trong nước và nước ngoài trong việc giám sát các hoạt động tài chính phi ngân hàng của các tổ chức tín dụng Việt Nam và các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Thanh tra ngân hàng chưa có cơ chế phối hợp với các cơ


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

quan thanh tra, giám sát tài chính khác để triển khai các cuộc thanh tra hợp nhất, giám sát toàn diện hoạt động của các tổ chức tín dụng có hoạt động ngân hàng và tài chính phi ngân hàng.

2.3.3.2. Nguyên nhân về phía các Ngân hàng thương mại

Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam - 18

- Do nhận thức, kỹ năng quản trị và lãnh đạo

Mặc dù nhiều NHTM đã xây dựng và thực hiện văn hóa doanh nghiệp, song chưa quan tâm xây dựng bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong toàn hệ thống, trong khi đó, sai phạm chủ yếu trong ngành là từ con người, ngoài trình độ nghiệp vụ thì vấn đề giữ chữ “Đức” của nghề là cội nguồn hành nghề của cán bộ ngân hàng.

- Dữ liệu chưa đầy đủ và sạch

Một đơn vị nghiệp vụ thường xuyên được tiếp xúc với nhiều thông tin từ các ngân hàng là Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) nhưng với cơ chế hiện nay, cơ quan này cũng chỉ quản lý và thông tin những con số rời rạc, chắp vá và quyền năng bị hạn chế, chưa xứng tầm với chức năng “cảnh báo rủi ro tín dụng”. Hiện tại, CIC cũng thông tin nhiều vấn đề như nợ không đủ tiêu chuẩn của hệ thống, từng ngân hàng hay danh sách khách hàng nợ nhóm 3, 4, 5 và “khách hàng có quan hệ nhiều tổ chức tín dụng” nhưng chưa có thông tin khách hàng có nợ xấu với nhiều tổ chức tín dụng.

Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005, Thống đốc NHNN quy định: “Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ với tổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro”. Đây là nguyên tắc “một khách hàng chỉ có một nhóm nợ”, được quy định khá ngặt nghèo để giảm thiểu tổn thất ở mức thấp nhất, nhằm làm lành mạnh hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, nếu khách hàng vay tại một ngân hàng thì mọi chuyện đơn giản vì bộ phận quản trị rủi ro ngân hàng đó sẽ xử lý. Nhưng nếu khách hàng trên vay nhiều ngân hàng khác nhau thì nguyên tắc trên gần như không có tác dụng. Rất có thể, khách hàng sẽ giấu điều này và các NHTM trót giao dịch với


khách hàng này rất khó biết được khách hàng đó nợ những ai và thiếu khả năng đề phòng bất trắc.

Để giảm thiểu rủi ro, nhiều NHTM cho rằng, CIC là đơn vị được tiếp cận nhiều thông tin, nên cần giao cho đơn vị này “quyền quy đổi về nhóm nợ” đối với nợ xấu của một khách hàng ở nhiều tổ chức tín dụng theo như quy định tại Quyết định 493, để thông báo ngay cho những ngân hàng sắp trở thành “nạn nhân” của khách hàng nói trên. Thậm chí, nếu cần thiết, có thể thông báo cho cả hệ thống biết.

- Hạ tầng công nghệ thông tin hạn chế

Trên thực tế, Nếu hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, hoàn thiện cũng có thể giúp các NHTM phòng ngừa được rủi ro đạo đức, vì trong quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, khách hàng luôn nắm được nhiều thông tin hơn NHTM về quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng chẳng hạn, họ có thể che giấu thông tin và thực hiện những hoạt động gây rủi ro cho khoản vốn vay mà người cho vay không mong muốn. Đây chính là hành vi rủi ro đạo đức từ phía khách hàng. Nếu các ngân hàng thiếu sự giám sát chặt chẽ thì xu hướng rủi ro đạo đức từ phía khách hàng sẽ gia tăng, gây nguy cơ tổn thất nhiều hơn cho các NHTM. Ngoài ra, nguyên nhân rủi ro đạo đức xuất phát từ việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ, không đánh giá đúng năng lực cũng như phẩm chất, tư cách đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng. Từ đó dẫn đến sự thông đồng giữa cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng với khách hàng, gây thiệt hại đến lợi ích chung của ngân hàng.

- Do mô hình, quy trình và kế hoạch quản trị chưa hợp lý

Các yếu tố bên ngoài và từ khách hàng là rất khó nhận biết để phòng và tránh rủi ro. Nhưng các yếu tố mang tính nội bộ của NHTM thì hoàn toàn có thể chủ động đề phòng tránh. Một trong các nguyên nhân đó là mô hình, quy trình và kế hoạch quản trị chưa hợp lý.

Về quy trình nghiệp vụ cần rà soát tất cả các khâu có thể gây nên rủi ro hoạt động của NHTM. Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ cần được phân quyền và chịu trách nhiệm cao hơn. Bộ máy kiểm soát cần độc lập với người điều hành.


Hệ thống công nghệ thông tin và kiểm soát từ xa qua hệ thống core banking cần phát huy tối đa tiện ích đem lại. Các hội sở chính cần kiểm soát tất cả các nghiệp vụ phát sinh trong ngày.

Cuối cùng là hạn chế rủi ro các nguyên nhân rủi ro đạo đức do khách hàng từ bên ngoài. Các NHTM cần xây dựng các phương án, đưa ra tình huống để sẵn sàng đối phó với các rủi ro đạo đức đến từ bên ngoài trong đó có cả những yếu tố cấu kết giữa cán bộ của NHTM và bên ngoài.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Trên cơ sở những vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro đạo đức đã đề cập ở chương 1, NCS đã đánh giá thực trạng quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017. Từ đó đánh giá các kết quả đạt được, các hạn chế và nguyên nhân. Kết quả đánh giá chương 2 là cơ sở để NCS đề xuất các giải pháp trong chương 3.


Chương 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


3.1. ĐỊNH HƯỚNG TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

3.1.1. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức trong quản lý rủi ro đạo đức

3.1.1.1. Điểm mạnh

Hiện nay, mới chỉ vài ngân hàng đã áp dụng được công tác quản lý tín dụng tập trung. Trong đó, hội sở kiểm soát chặt chẽ được các hồ sơ tín dụng, lực lượng kiểm soát tín dụng được trao thực quyền, tổ chức tốt và đặc biệt là được nắm quyền hạch toán giải ngân nên đã hạn chế được nhiều rủi ro đạo đức.

Một trong số những điểm mạnh của hệ thống quản lý rủi ro đạo đức của các ngân hàng hiện nay là sự chủ động nghiên cứu, áp dụng những tiêu chuẩn, thông lệ Quốc tế vào quá trình hoạt động. Nhiều ngân hàng đã và đang nghiên cứu để áp dụng các tiêu chuẩn Basle II và Basle III. Với tinh thần đi trước đón đầu, việc áp dụng các thông lệ thế giới vào quản lý rủi ro nói chung và rủi ro đạo đức nói riêng đang được cải tiến một cách nhanh chóng trong những năm gần đây.

3.1.1.2. Điểm yếu

- Sự không nhất quán trong phương pháp tiếp cận rủi ro đạo đức của các ngân hàng gây cản trở cho sự trao đổi hợp tác giữa các ngân hàng trong quản lý rủi ro đạo đức. Hiện nay ở Việt Nam, hầu như các ngân hàng đều tự mình xây dựng chính sách và các quy định quản lý rủi ro đạo đức dựa trên những tài liệu có được từ các ngân hàng Quốc tế, chưa có sự trao đổi giữa các ngân hàng để tìm ra phương pháp tiếp cận tốt nhất cho các ngân hàng tại Việt Nam. Sự thiếu phối hợp này cũng gây khó khăn cho các cấp quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, thống kê, hướng dẫn thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro đạo đức của các ngân hàng. Vai trò của Hiệp hội ngân hàng và NHNN trong vấn đề này chưa thể hiện một cách rõ ràng.


- Sự khác biệt trong phương pháp tiếp cận giữa các ngân hàng Việt Nam và các ngân hàng thế giới cũng đưa đến khó khăn cho các ngân hàng Việt Nam trong việc tiếp nhận sự hỗ trợ từ phía các ngân hàng nước ngoài về quản lý rủi ro đạo đức.

Hiện nay, chưa có một văn bản cụ thể quy định các ngân hàng phải xây dựng bộ máy, quy định, công cụ, công nghệ và báo cáo quản lý rủi ro đạo đức với các cấp quản lý. Do đó, nhiều ngân hàng chưa nhận thức được sự cần thiết của hoạt động quản lý rủi ro này.

- Bên cạnh những điểm yếu trên, hệ thống công cụ phần mềm, công nghệ phục vụ công tác quản lý rủi ro hoạt động nói chung, quản lý rủi ro đạo đức nói riêng hiện còn rất thô sơ. Ngoài một số hệ thống đã được các ngân hàng đầu tư lớn như Opriskmonitor của VietinBank hay Kondor+ của Maritine Bank, hầu hết các hệ thống phần mềm quản lý rủi ro hiện nay được tự các ngân hàng phát triển, chỉ mang tính hỗ trợ công tác tổng hợp báo cáo chứ chưa có chức năng phân tích, đánh giá.

- Một trong những nguyên nhân làm các hệ thống công nghệ phục vụ quản lý rủi ro đạo đức chưa phát huy được tác dụng là do hệ thống cơ sở dữ liệu chưa đầy đủ. Trong khi các ngân hàng nước ngoài đã duy trì việc thu thập và thống kê dữ liệu rủi ro đạo đức từ rất nhiều năm, các ngân hàng Việt nam mới bắt đầu thu thập những dữ liệu này trong vài năm trở lại đây, chưa đủ cơ sở để thực hiện đánh giá.

- Ngoài ra, vấn đề nhân sự của các ngân hàng cũng rất đang quan tâm, nhất là bộ phận tín dụng và bộ phận tái thẩm định. Các cán bộ tín dụng hàng năm đều được bổ sung từ nguồn sinh viên mới tốt nghiệp. Nhiều khi, các sinh viên này trực tiếp được giao nhiệm vụ làm cán bộ tín dụng duy nhất của 1 phòng giao dịch. Đương nhiên, một người không thể ảnh hưởng đến cả quyết định cho vay vì còn rất nhiều bộ phận đi kèm nhưng các cán bộ tín dụng này rất dễ thành “máy ký” dưới sự chỉ đạo của các lãnh đạo phòng giao dịch. Đây cũng là rủi ro cần thấy, và trên thực tế là có xảy ra.

- Bộ phận tái thẩm định của các ngân hàng cũng cần được củng cố. Có chi nhánh ngân hàng đã tuyển cả người mới tốt nghiệp đại học, chưa kinh qua công tác tín dụng, tái thẩm định để làm công tác này với khẩu hiệu “đào tạo từ từ”. Thiết nghĩ, các bộ phận như tái thẩm định thì cần phải có những người xuất sắc, chứ không phải có kinh nghiệm là đủ.

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí