dữ liệu về giá phục vụ QLNN trong lĩnh vực giá. (v) Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá; quản lý thi, cấp và thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá, Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. (vi) Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực giá. (vii) Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giá. Trong quản lý hoạt động kinh doanh bất động sản, Điều 76 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định nội dung QLNN gồm: (i) ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh bất động sản. (ii) Xây dựng, ban hành chiến lược phát triển thị trường bất động sản, kế hoạch thực hiện các dự án bất động sản. (iii) Xây dựng và công bố các chỉ số đánh giá thị trường bất động sản. (iv) Xây dựng hệ thống thông tin về thị trường bất động sản. (v) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản, tình hình triển khai thực hiện dự án bất động sản. (vi) Phổ biến, giáo dục pháp luật về kinh doanh bất động sản. (vii) Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật trong kinh doanh bất động sản.
Trên cơ sở chức năng quản lý, đặc điểm, mục tiêu QLNN về giá đất và thực tiễn quy định pháp luật về nội dung QLNN nêu trên, tác giả cho rằng nội dung QLNN về giá đất ở nước ta bao gồm:
2.3.3.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch quản lý nhà nước về giá đất
Nội dung này được hình thành trên cơ sở chức năng lãnh đạo và chức năng lập kế hoạch trong quản lý. Chiến lược QLNN về giá đất được xây dựng dựa trên những định hướng, chủ trương của Đảng trong quản lý đất đai nói chung và giá đất nói riêng, thông qua việc ban hành các văn bản chủ đạo trong QLNN.
Nghị quyết số 19-NQ/TW nhận định giá đất là một trong những nội dung quản lý còn nhiều tồn tại, hạn chế trong quản lý đất đai ở nước ta. Tác giả cho rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến tồn tại trên là chưa xây dựng toàn diện thể chế quản lý đất đai, nội dung kinh tế đất đai ở nước ta còn nhiều hạn chế. Nghị quyết định hướng cụ thể nội dung về giá đất như sau:
“Giá đất do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm định giá, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Chính phủ quy định phương pháp định giá đất và khung giá đất làm căn cứ để UBND cấp tỉnh ban hành Bảng giá đất. Bổ sung quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất bảo đảm linh hoạt, phù hợp với từng loại đất, các đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất, cho thuê đất. Có cơ chế để xử lý chênh lệch giá đất tại khu vực giáp ranh giữa các địa phương.
Kiện toàn cơ quan định giá đất của Nhà nước, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác định giá đất và thẩm định giá đất. Cơ quan tham mưu xây dựng giá đất và cơ quan thẩm định giá đất là hai cơ quan độc lập;
làm rõ trách nhiệm cơ quan giải quyết khiếu nại về giá đất trong bồi thường giải phóng mặt bằng.
Làm tốt công tác theo dõi, cập nhật biến động giá đất trên thị trường; từng bước xây dựng CSDL về giá đất tới từng thửa đất. Có cơ chế giám sát các cơ quan chức năng và tổ chức định giá đất độc lập trong việc định giá đất. Khuyến khích phát triển các tổ chức tư vấn định giá đất độc lập”.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Tác Động Đến Giá Đất
- Trạng Thái Vận Động Của Giá Đất Và Những Tác Động Đến Kinh Tế, Xã Hội.
- Quy Định Pháp Luật Trong Quản Lý Nhà Nước Về Giá Đất
- Chủ Thể Quản Lý Nhà Nước Về Giá Đất Và Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Giá Đất
- Những Nội Dung Quản Lý Đất Đai Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Quản Lý Nhà Nước Về Giá Đất
- Thượng Tôn Pháp Luật Trong Quản Lý Nhà Nước Về Giá Đất
Xem toàn bộ 219 trang tài liệu này.
Định hướng nêu trên tập trung hai vấn đề gồm: công tác định giá đất và những nội dung về QLNN đối với giá đất; xác định rõ trách nhiệm của Chính phủ, UBND cấp tỉnh trong quản lý giá đất. Về nội dung hoạt động cụ thể, được định hướng như sau: Nhà nước quyết định giá đất theo cơ chế thị trường - đây là nội dung thể hiện tính đặc trưng trong quản lý giá đất, vấn đề còn nhiều tồn tại, phát sinh nhiều xung đột trong quá trình quản lý; công tác định giá đất - kiện toàn hệ thống cơ quan định giá đất, mở rộng sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước trong quá trình định giá đất, phân định rõ chức năng quản lý và chức năng cung cấp dịch vụ thẩm định giá đất, giám sát quá trình định giá đất; hoàn thiện CSDL giá đất - là nhiệm vụ mang tính chiến lược, củng cố nền tảng thị trường trong quản lý giá đất.
Dựa vào những mục tiêu đề ra, quy định pháp luật và phương pháp quản lý để xây dựng kế hoạch triển khai công tác QLNN về giá đất. Từ những đặc điểm về tính khu vực, thường xuyên biến động, bản chất kinh tế của giá đất nên QLNN về giá đất đòi hỏi sự phối hợp của các cấp, các ngành. Vì thế, lập kế hoạch là rất cần thiết cho sự chủ động phối hợp quản lý, tiết kiệm các nguồn lực. Kế hoạch được phân loại rất đa dạng, cụ thể như: theo phạm vi, gồm kế hoạch chiến lược, kế hoạch thực thi và kế hoạch hành động; theo thời gian, gồm kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn; theo mức độ cụ thể bao gồm kế hoạch định hướng và kế hoạch cụ thể; theo đối tượng có kế
hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính, kế hoạch tác nghiệp và kế hoạch dự án.158 Dựa vào
mục tiêu và đặc điểm của QLNN về giá đất, tác giả cho rằng QLNN về giá đất phải bảo đảm kế hoạch chiến lược quản lý và kế hoạch nhiệm vụ cụ thể như: kế hoạch xây dựng khung giá đất, kế hoạch xây dựng bảng giá đất… Xây dựng chiến lược và kế hoạch quản lý giá đất đòi hỏi tính khả thi và khoa học của các mục tiêu quản lý. Đây là nội dung thể hiện khả năng định hướng và tính chủ động của Nhà nước trong quản lý giá đất. Khi mục tiêu quản lý, chiến lược và kế hoạch quản lý giá đất không được bảo đảm thì đó chỉ là sự quản lý mang tính nhất thời, sự vụ không thể đạt hiệu quả tối ưu.
2.3.3.2. Ban hành quyết định quản lý nhà nước về giá đất
Quyết định QLNN trong khoa học pháp lý nước ta có nhiều định nghĩa khác nhau, chưa thống nhất trong các công trình nghiên cứu. Điển hình, trong hai quyển Giáo trình Luật hành chính Việt Nam năm 2013 của tác giả Nguyễn Cửu Việt sử dụng thuật ngữ khác nhau: quyết định QLNN là thuật ngữ được sử dụng trong quyển giáo
158 Nguyễn Hữu Hải (chủ biên, 2014), Quản lý học đại cương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.123, 124.
trình của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Trong khi đó, quyển giáo trình của Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội sử dụng khái niệm quyết định hành chính. Giáo trình Luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam của Học viện hành chính quốc gia dùng thuật ngữ “quyết định quản lý hành chính nhà nước”.159 Trong khi đó, tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu sử dụng “quyết định quản lý của cơ quan hành chính nhà nước” trong Giáo trình Luật hành chính Việt Nam năm 2009. Từ phân tích
nội hàm của các khái niệm nêu trên và quan điểm của tác giả Nguyễn Cửu Việt trong bài viết “Bàn về thuật ngữ quản lý hành chính nhà nước” cho thấy sử dụng thuật ngữ “quyết định QLNN” là phù hợp. Trong khoa học luật hành chính Việt Nam thì quyết định QLNN được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau nhưng phổ biến nhất là dựa vào tính chất pháp lý của quyết định và được chia thành ba loại, gồm: quyết định chủ
đạo, quyết định quy phạm và quyết định cá biệt.160 Đây là những loại quyết định được
ban hành trong quá trình QLNN về giá đất. Điều 21 và Điều 22 LĐĐ năm 2013 là cơ sở pháp lý cho quyền ban hành các quyết định trong quá trình quản lý giá đất, là nội dung cơ bản trong QLNN về giá đất.
Quyết định chủ đạo trong QLNN về giá đất là loại quyết định chứa đựng những chủ trương, chiến lược, đường lối, mục tiêu lớn của quản lý giá đất; là cơ sở xây dựng các quyết định quy phạm hoặc ban hành các quyết định cá biệt. Quyết định chủ đạo trong quản lý giá đất cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, là nền tảng, định hướng thiết lập cơ chế quản lý giá đất.
Quyết định quy phạm trong QLNN về giá đất là loại quyết định chứa đựng các quy tắc xử sự chung, làm cơ sở, khuôn khổ pháp lý trong quản lý, là căn cứ trực tiếp ban hành các quyết định cá biệt. Đây là nội dung thể hiện chức năng điều chỉnh trong QLNN, là hoạt động nền tảng mang tính chấp hành của cơ quan hành chính nhà nước.
Quyết định cá biệt trong QLNN về giá đất là loại quyết định ban hành để giải quyết vụ việc cụ thể, là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật, chủ yếu căn cứ vào những quy định trong quyết định quy phạm.
Hiệu quả của nội dung ban hành quyết định quản lý giá đất được đánh giá dựa vào tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định.161 Tính hợp pháp của quyết định QLNN về giá đất thể hiện nguyên tắc nhà nước pháp quyền, mọi sự quản lý của Nhà nước đều đặt dưới pháp luật, các quyết định của chủ thể quản lý được ban hành phải
159 Học viện hành chính quốc gia (2006), Giáo trình Luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.130.
160 Đây là cách phân loại phổ biến trong các giáo trình Luật hành chính Việt Nam, cụ thể: Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.184-186; Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.425-430.
161 Việc đánh giá quyết định quản lý nhà nước dựa vào tính hợp pháp và tính hợp lý được nhiều công trình
nghiên cứu khẳng định, điển hình như: Vũ Thư (2003), “Tính hợp pháp và hợp lý của văn bản pháp luật và các biện pháp xử lý các khiếm khuyết của nó”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1); Bùi Thị Đào (2008), Tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính, Luận án Tiến sĩ luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội; Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Hồng Đức, Tp. Hồ Chí Minh, tr.472. Cao Vũ Minh (2017), Quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.189.
tuân thủ những quy định cả về nội dung và hình thức. Tính hợp lý của quyết định được phản ánh qua sự đồng thuận trong cộng đồng, mức độ hiệu quả, khả thi của quyết định.
Tính hợp pháp trong các quyết định QLNN về giá đất được đánh giá qua các tiêu chí cụ thể sau:162 (i) được ban hành đúng quy định về thẩm quyền, hình thức và trình tự, thủ tục; (ii) nội dung quyết định phải phù hợp với quy định tương ứng về các vấn đề đó trong Hiến pháp, pháp luật và văn bản của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; (iii) quyết định được ban hành phải bảo đảm tính kịp thời.
Tính hợp lý trong các quyết định QLNN về giá đất được xem xét qua các tiêu chí sau:163 (i) quyết định phải bảo đảm tính toàn diện và cụ thể ; (ii) bảo đảm tính khả thi; (iii) quyết định phải hài hoà các nhóm lợi ích liên quan; (iv) ngôn ngữ, văn phong phải chuẩn mực, rõ ràng, dễ hiểu, chính xác.
Những cơ sở lý luận trên là căn cứ đánh giá thực trạng và hoàn thiện nội dung ban hành các quyết định trong quá trình QLNN về giá đất; sự hoàn thiện của các quyết định quản lý là tiền đề, là kết quả đánh giá hiệu quả quản lý giá đất.
2.3.3.3. Quyết định giá đất
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thực hiện các quyền của chủ sở hữu bao gồm quyền quyết định lợi ích kinh tế của đất đai. Giá trị kinh tế của đất đai được biểu hiện cụ thể thông qua giá đất, vì thế quyền quyết định giá đất nhà nước là hoạt động đặc trưng, thể hiện chức năng điều hành, có tính chất tác nghiệp, là sự can thiệp quản lý trực tiếp của Nhà nước đối với giá đất.
Quyền quyết định giá đất được quy định tại Điều 18 LĐĐ năm 2013 bao gồm: Nhà nước quy định nguyên tắc, phương pháp định giá, ban hành khung giá đất, bảng giá đất và quyết định giá đất cụ thể. Các nguyên tắc và phương pháp định giá đất phải bảo đảm tính chính xác, hiệu quả trong quyết định giá đất, khung giá đất và bảng giá đất phải phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường.
Khung giá đất là mức giá đất tối đa, tối thiểu của từng loại đất theo từng vùng (cả nước được chia thành 07 vùng theo Điều 4 Nghị định số 96/2019/NĐ-CP), là căn cứ để UBND cấp tỉnh ban hành bảng giá đất ở địa phương. Hiện nay, khung giá đất được ban hành, áp dụng 05 năm/ lần và được điều chỉnh dựa trên biến động của giá đất phổ biến trên thị trường. Tính đến nay trong thời kỳ LĐĐ năm 2013, Chính phủ đã ban hành hai khung giá đất: Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 khung giá đất giai đoạn 2015 - 2019 và Nghị định số 96/2019/NĐ-CP ngày 19/12/2019 khung giá đất 2020 - 2024. Đồng thời, Bộ TN&MT đã ban hành Thông tư số 69/2017/TT-BTNMT ngày 29/12/2017 quy định về quy trình xây dựng, điều chỉnh khung giá đất. So với các thời kỳ LĐĐ trước đây, LĐĐ năm 2013 quy định khung giá đất chi tiết hơn, có sự
162 Cao Vũ Minh (2017), Quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.202-209; 215-219.
163 Cao Vũ Minh (2017), Quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.209-214; 226-234.
phân chia cụ thể hơn giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế. Căn cứ Điều 8 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP Bộ TN&MT tổ chức xây dựng, lấy ý kiến dự thảo khung giá đất, Bộ Tài chính thẩm định khung giá đất và Chính phủ ban hành. Khung giá đất là mức giới hạn tối đa và tối thiểu của từng loại đất; với mục đích là căn cứ để UBND cấp tỉnh ban hành bảng giá đất, bảo đảm mức độ chênh lệch hợp lý giữa các vùng, các địa phương.
Bảng giá đất được xây dựng dựa trên khung giá đất, nguyên tắc, phương pháp định giá đất và kết quả tổng hợp, phân tích thông tin về giá đất thị trường; các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, quản lý và sử dụng đất đai ảnh hưởng đến giá đất. Sở TN&MT tổ chức xây dựng dự thảo bảng giá đất trình UBND cấp tỉnh ban hành sau khi được Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua. Điều 114 LĐĐ năm 2013 quy định bảng giá đất được ban hành 05 năm/ lần, công bố công khai vào ngày 01/01 năm đầu kỳ. Bảng giá đất thể hiện quyền quyết định giá đất của Nhà nước đến từng vị trí, thậm chí từng thửa đất. Mặc dù nguyên tắc định giá đất tại Điều 112 LĐĐ năm 2013 quy định rất rõ là phải phù hợp giá đất phổ biến trên thị trường nhưng với những quy định khống chế bảng giá đất hiện nay thì không thể nào có được một bảng giá phù hợp thị trường. Điển hình, bảng giá đất chỉ được vượt mức tối đa của khung giá đất cùng loại trong một số trường hợp, cho một số loại đất; đồng thời là giới hạn mức chênh lệch giá đất tại khu vực giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố quy định tại Điều 13 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP. Để giải quyết tình trạng bảng giá đất xa rời thị trường, có quan điểm
cho rằng UBND cấp tỉnh nên triển khai xây dựng bảng giá đất theo phương pháp cho người sử dụng đất tự đăng ký giá đất.164 Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta hiện nay, tác giả cho rằng đây là giải pháp không thật sự thích hợp bởi giá do đăng ký sẽ thể hiện ý chí chủ quan rất nhiều, điều này trái ngược định hướng quản lý giá đất theo cơ chế thị trường. Ngoài ra, dữ liệu thông tin đất đai hiện nay chưa bảo đảm cho việc
đăng ký và cập nhật giá đất trên hệ thống bản đồ địa chính. Việc đăng ký giá đất sẽ ảnh hưởng đến tính chủ động trong xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vì khi đó nguồn thu ngân sách từ đất đai phụ thuộc vào mức giá đất đăng ký bởi người dân; đồng thời sẽ làm phức tạp thêm tình hình của giá đất vì xuất hiện thêm giá đăng ký ngoài hai loại giá đang tồn tại. Vì vậy, tác giả cho rằng việc đăng ký giá đất của người dân cần được triển khai từng bước, trước hết là mang giá trị tham khảo để Nhà nước quyết định, sau đó đánh giá tổng kết và có những quy định, lộ trình triển khai phù hợp, hiệu quả.
Giá đất cụ thể được quyết định dựa vào nguyên tắc, phương pháp định giá và dữ liệu giá đất phổ biến trên thị trường, áp dụng trong từng trường hợp cụ thể. Giá đất cụ thể phản ánh tính cá biệt của giá đất, nâng cao tính công bằng trong quyết định giá
164 Nguyễn Diệp (2020), “Quản lý đất đai dựa trên giá đất do người dân tự đăng ký”, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp điện tử, https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/quan-ly-dat-dai-dua-tren-gia-dat-do-nguoi-dan-tu-dang-ky- d10633.html [truy cập ngày 30/12/2020].
đất. Khoản 3 Điều 114 LĐĐ năm 2013 quy định UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong CSDL đất đai; áp dụng phương pháp định giá đất phù hợp; khuyến khích sự tham gia của các tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất trong quá trình xác định giá đất cụ thể. Giá đất cụ thể là sự kết hợp quyền quyết định của Nhà nước trên nền tảng thị trường để giải quyết bất cập về sự chênh lệch giữa giá đất nhà nước và giá thị trường. Tuy nhiên, với quy định về điều kiện áp dụng giá đất tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP và Nghị định số
46/2014/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung và phương pháp hệ số điều chỉnh giá165 trong xác
định giá đất cụ thể đã cho thấy sự ảnh hưởng rất lớn của bảng giá đất khi áp dụng giá đất cụ thể. Vì vậy, có thể kết luận rằng, giá đất cụ thể không chỉ được quyết định trên nền tảng thị trường mà chịu sự ảnh hưởng, ràng buộc nhất định bởi khung giá đất và bảng giá đất. Bên cạnh đó, Điều 16 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về trình tự xác định giá đất cụ thể cho thấy giá đất cụ thể được quyết định trong một quy trình hành chính khép kín với sự tham gia rất hạn chế của tổ chức tư vấn thẩm định giá đất.
Việc quyết định giá đất không chỉ quyết định nguồn thu từ đất đai mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên liên quan. Nhằm bảo đảm hài hòa các nhóm lợi ích, PLĐĐ đã xây dựng nguyên tắc định giá đất tại Điều 112 LĐĐ năm 2013, nổi bật là nguyên tắc “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường”. Điều này cho thấy rất rõ định hướng quản lý giá đất theo cơ chế thị trường, hơn thế nữa, các quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất tại Nghị định số 44/2014/NĐ-CP đều dựa vào biến động của giá đất trên thị trường. Tuy nhiên, chính mối quan hệ ràng buộc giữa khung giá đất với bảng giá đất; giữa bảng giá đất đến giá đất cụ thể đã thể hiện sự chi phối mạnh mẽ của tính hành chính; nền tảng thị trường không thể phát huy trong sự trói buộc của các nguyên tắc hành chính khi quyết định giá đất. Mặc dù kết quả quyết định giá đất ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng đất nhưng quá trình quyết định giá đất chưa bảo đảm sự tham gia của các chủ thể liên quan. Điển hình, theo quy định tại Điều 8 và Điều 12 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP thì chủ thể liên quan chỉ tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng khung giá đất, bảng giá đất; Điều 16 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP về trình tự xác định giá đất cụ thể không quy định về công tác lấy ý kiến chủ thể liên quan. Sự chi phối mạnh mẽ của yếu tố hành chính cùng với sự tham gia rất hạn chế của các chủ thể ngoài nhà nước khi quyết định giá đất là nguyên nhân tạo nên những bất đồng gay gắt về kết quả quyết định giá đất nhà nước.
165 Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất là phương pháp định giá đất bằng cách sử dụng hệ số điều chỉnh giá đất nhân (x) với giá đất trong bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành.
Quyết định giá đất là nội dung đặc trưng, thể hiện sự quản lý trực tiếp của Nhà nước đối với giá đất và tạo những tác động trực tiếp đến sự hình thành và vận động của giá đất thị trường.
2.3.3.4. Xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất và dự báo giá đất
Thông tin là nguồn dữ liệu quan trọng trong quản lý, tính chính xác và đầy đủ của thông tin là yêu cầu cơ bản, quyết định hiệu quả quản lý. Quản lý theo cơ chế thị trường đối với giá đất thì thông tin giá đất thị trường là điều không thể thiếu. Việc hoàn thiện dữ liệu, cung cấp thông tin về giá đất không chỉ phục vụ hoạt động của chủ thể quản lý mà còn là tiền đề quan trọng cho sự tham gia của các cá nhân, tổ chức trong xã hội vào quá trình quản lý. Tầm quan trọng của dữ liệu giá đất đã được khẳng định tại Điều 121 LĐĐ năm 2013 và Điều 21 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP, dữ liệu về giá đất là thành phần quan trọng trong CSDL đất đai quốc gia.
Các thông tin giá đất được thiết lập trên nền tảng dữ liệu đất đai nên tính chính xác, kịp thời trong quản lý, cập nhật CSDL đất đai ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung xây dựng, khai thác dữ liệu giá đất. Chính sự khác biệt về giá của từng thửa đất và thời điểm khác nhau giá đất có thể thay đổi nên dữ liệu về giá đất phải được xây dựng hệ thống, khoa học, cập nhật liên tục; lồng ghép việc ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại nhằm thể hiện mối tương quan giữa các loại giá đất theo mục đích, khu vực… Tính chính xác, hệ thống và cập nhật thông tin giá đất thị trường là điều kiện tiên quyết để quản lý giá đất theo cơ chế thị trường, bảo đảm hiệu quả và độ tin cậy trong dự báo giá đất. Kết quả dự báo giá đất không chỉ mang lại ý nghĩa trên thị trường mà còn là một trong những cơ sở để cơ quan quản lý xây dựng kế hoạch quản lý, xác định phương pháp quản lý. Dự báo giá đất thể hiện sự quản lý trên nền tảng thị trường và gián tiếp điều tiết giá đất thị trường thông qua tác động đến cung, cầu trên thị trường. Vì vậy, thông tin giá đất phải bảo đảm tính chính xác, thường xuyên được cập nhật, có tính hệ thống, khoa học, hiện đại và khai thác hiệu quả.
Thông tin giá đất thị trường nói riêng và dữ liệu đất đai nói chung là nguyên liệu đầu vào quyết định tính hiệu quả, khả thi của các quyết định QLNN về giá đất. Công tác dự báo giá đất khẳng định tầm quan trọng của Nhà nước trong quản lý và củng cố nền tảng thị trường trong QLNN về giá đất.
2.3.3.5. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đội ngũ quản lý giá đất
Yếu tố con người phải được chú trọng để đáp ứng nhu cầu thời đại và các nhiệm vụ quản lý. Đặc biệt, giá đất là một lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn cao nên việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý giá đất là rất cần thiết, đây là nội dung được quy định cụ thể tại Điều 21 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP. Với đặc điểm của giá đất và những đặc trưng trong QLNN về giá đất, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ quản lý giá đất cần đáp ứng các yêu cầu sau: (i) chất lượng chuyên môn được bảo đảm cùng với đạo đức quản lý. Theo đó, chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ quản lý phải dựa trên chức năng, nhiệm vụ quản lý của từng ngành, từng cấp,
đáp ứng nhu cầu thực tiễn quản lý. Quan tâm, thường xuyên tuyên truyền, rèn luyện đạo đức đội ngũ quản lý, nhất là trong bối cảnh quản lý giá đất ở nước ta hiện phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người. (ii) Công tác đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện thường xuyên, hiện đại. Định kỳ tổ chức tập huấn, cập nhật kiến thức, công nghệ mới trong quản lý; tích cực ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và trang bị kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ quản lý đáp ứng những yêu cầu quản lý trong xã hội hiện đại. (iii) Đa dạng phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý. Đa dạng phương thức nhằm tăng tính hấp dẫn, nâng cao hiệu quả và tạo điều kiện tham gia linh hoạt. Phương thức đào tạo phải gắn liền với nội dung, mục tiêu và đối tượng tham dự. (iv) Bảo đảm hiệu quả và tiết kiệm chi phí tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ quản lý. Việc tổ chức các khóa học, lớp tập huấn, các hội thảo, hội nghị phải bảo đảm ý nghĩa và mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ quản lý phải được bố trí phù hợp, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả.
Con người là một trong những yếu tố quyết định trực tiếp hiệu quả quản lý giá đất nhất là trong bối cảnh pháp luật về giá đất còn nhiều khiếm khuyết. Năng lực của chủ thể quản lý góp phần thực thi hiệu quả và không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng cơ chế quản lý giá đất.
2.3.3.6. Kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về giá đất
Nhằm bảo đảm hiệu lực các quy định trong thực tế, kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm thì việc kiểm tra, thanh tra các hoạt động liên quan đến giá đất là rất cần thiết, bảo đảm các mục tiêu của quá trình quản lý. Tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về giá đất nhằm phát huy dân chủ trong quản lý. Trên cơ sở lý luận của luật hành chính Việt Nam và khoa học QLNN đều cho rằng các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, giải quyết khiếu nại, tố cáo là những phương thức cơ bản kiểm soát đối với QLNN. Điểm c khoản 1 Điều 21 Nghị định số 44/2014/NĐ- CP quy định cụ thể về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong QLNN về giá đất.
Kiểm tra là hoạt động thường xuyên nhằm bảo đảm hiệu lực quản lý, kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, sai phạm để hoàn thiện công tác quản lý. Kiểm tra công tác quản lý giá đất xét về phạm vi được thực hiện trong phạm vi nội bộ cơ quan quản lý, thậm chí đến quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý của từng cán bộ; trong hệ thống cơ quan TN&MT cấp trên với cấp dưới; kiểm tra thực hiện những nội dung cụ thể như: công tác xây dựng, ban hành, điều chỉnh bảng giá đất, công tác quyết định giá đất cụ thể, công tác xây dựng dữ liệu giá đất…
Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách,