Số Lượng Lao Động Trong Khu Vực Fdi

động, các nhà đầu tư nước ngoài còn được miễn giảm thuế lợi tức. Việc miễn thuế có thể diễn ra trong 2 năm đầu hoạt động, tiếp tục được giảm thuế 50% cho 2 năm tiếp theo. Tổng thời gian miễn, giảm thuế là 4 năm. Nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển lợi nhuận về nước phải nộp thuế với mức từ 5% đến 10%. Nếu nhà đầu tư nước ngoài sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì thuế chuyển lợi nhuận này được hoàn lại. Tuy nhiên, việc quy định hình thức miễn giảm thuế không cụ thể như trên đã gây ra tình trạng tùy tiện trong việc áp dụng. Mức độ ưu đãi thuế cũng chưa gắn liền với định hướng chiến lược thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế.

Năm 1996, luật Đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ sung. Trước hết, các ưu đãi về tài chính được áp dụng với các tiêu chuẩn khuyến khích nhiều hơn, rõ ràng hơn về thời hạn, lĩnh vực. Các dự án được phân loại thành các nhóm khác nhau và tỷ lệ miễn thuế cũng khác nhau. Doanh nghiệp FDI nộp thuế lợi tức là 25% lợi nhuận thu được, trong trường hợp khuyến khích đầu tư mức thuế lợi tức là 20%, trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tứclà 15%, trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 10% lợi nhuận thu được. Thời gian miễn giảm thuế cũng đươc kéo dài tối đa là 8 năm đối với những trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư. Các doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong Khu công nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế đối với trường hợp khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư theo như quy định trên. Bên cạnh việc miễn giảm thuế lợi tức, việc hoàn thuế lợi tức cũng được coi trọng.

Luật sửa đổi bổ sung năm 2000 đã quy định thêm một số điều kiện khuyến khích cho các nhà đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nếu bị lỗ thì được chuyển lỗ sang năm sau, số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế. Thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm. Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài phải nộp một khoản thuế là 3%, 5%, 7% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tùy thuộc vào mức vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc vốn thực hiện hợp đồng hợp tác

kinh doanh. Mức thuế này đã giảm đi so với mức thuế được quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 là 5%, 7%, 10%.

Luật Đầu tư 2005 ra đời thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài, tạo hành lang pháp lý chung cho nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, mức ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp FDI được quy định theo luật thuế hiện hành, cụ thể là các luật thuế thu nhập Doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,…

3.2. Chính sách về đất đai


Mục tiêu của chính sách đất đai là tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài ở Việt Nam.

Các loại văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là Luật đất đai, Luật Đầu tư nước ngoài và hiện nay là Luật Đầu tư 2005. Nghị định 18/CP ngày 13/2/1995 quy định chi tiết việc thi hành pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được phép góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu đất đai đưa vào góp vốn, được xác định trên cơ sở mức tiền thuê đất theo quy định cho các trường hợp đầu tư nước ngoài. Mức tiền thuê đất được xác định tùy thuộc vào:

- Mức quy định khởi điểm cho từng khu đất

- Địa điểm của khu đất

- Kết cấu hạ tầng của khu đất

- Hệ số ngành nghề


Cách tính giá trị quyền sử dụng đất cho bên Việt Nam góp vốn trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo công thức sau:

Giá trị quyền sử dụng đất = Giá tiền thuê đất khởi điểm x hệ số địa điểm x hệ số hạ tầng x hệ số ngành nghề x diện tích x thời hạn góp vốn.

Thời điểm để tính giá trị quyền sử dụng đất tính từ ngày cấp phép đầu tư.

Luật Đầu tư 2005 cũng quy định về thời gian sử dụng đất đối với nhà đầu tư. Thời hạn sử dụng đất của dự án đầu tư không quá 50 năm; đối với các dự an có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, thuê đất không quá 70 năm. Khi hết thời gian sử dụng đất, nếu nhà đầu tư chấp hành đúng pháp luật về đất đai và có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì sẽ được xem xét gia hạn sử dụng đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đã được phê duyệt.

Mặc dù Chính phủ và các địa phương đã có những chính sách ưu đãi về việc sử dụng đất và hạ tầng các KCN, nhưng vấn đề cho thuê đất theo phản ánh của các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn một số tồn tại. Giá thuê đất ở Việt Nam còn ở mức cao so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù, giải tỏa thì giá đất bị đẩy lên cao. Đây là một yếu tố làm giảm sức cạnh tranh thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, công tác giải phóng mặt bằng để triển khai các dự án FDI vẫn còn diễn ra chậm chạp và gặp khó khăn ở một số địa phương như tình trạng các hộ dân đã nhận tiền đền bù nhưng vẫn tiếp tục canh tác tái lấn chiếm, đất dịch vụ cho dân triển khai chưa có hiệu quả; giải quyết việc làm, đầu tư hạ tầng, công trình công cộng, phúc lợi cho những vùng lấy đất chưa được quan tâm đúng mức, xử lý các doanh nghiệp tự ý nâng giá đất chưa triệt để đã tác động không nhỏ đến công tác này.

3.3. Chính sách về lao động


Phát triển nguồn nhân lực từ lâu là trọng tâm trong chính sách phát triển của Đảng và Chính phủ Việt Nam. Quan điểm của đại hội Đảng VIII là “thúc đẩy nguồn lực con người như là nhân tố cơ bản của phát triển nhanh chóng và bền vững, cho rằng nguồn lực con người đóng vai trò quyết định trong phát triển kinh tế xã hội” tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện chính thức của Đại hội Đảng IX và X.

Chính sách quản lý về lao động có mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, kỹ năng cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao động.

Dưới đây là số liệu về tình hình thu hút lao động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể thấy rằng, tỷ trọng lao động của khu vực FDI trong tổng số lao động tăng qua mỗi năm. Tính đến năm 2008, khu vực FDI đã tạo việc làm cho hơn 1,6 triệu lao động, chiếm 3,73% tổng số lao động của cả nước.

Bảng 1.3 : Số lượng lao động trong khu vực FDI


Đơn vị: triệu lao động




2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Tổng số lao

động


38562,

7


39507,

7


40573,

8


41586,

3


42526,

9


43338,

9


44173,

8


44915,

8

Khu

vực FDI


448,5


590,2


775,7


952,6


1132,8


1333


1561


1674,1

Tỷ

trọng

của kv FDI


1,16


1,49


1,91


2,29


2,66


3,08


3,53


3,73

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp - 8

Nguồn: Tổng cục thống kê


Bước vào thế kỷ 21, chất lượng nguồn nhân lực nước ta tiến bộ đáng kể, chỉ số phát triển nhân lực HDI của Việt Nam được xếp hạng 109/177 các nước. Theo báo cáo gần đây nhất (2007-2008), chỉ số HDI của Việt Nam là 0,725. 6

Tuy nhiên, chiến lược phát triển nguồn nhân lực của nước ta còn tồn tại nhiều hạn chế. Trình độ kỹ thuật, tay nghề kỹ năng, kinh nghiệm quản lý của đội ngũ lao động Việt Nam còn rất thấp, đồng thời ý thức kỹ thuật và tinh thần hợp tác làm việc tập thể chưa cao. Đội ngũ cán bộ khoa học tuy có tiềm năng trí tuệ cao, tiếp thu nhanh tri thức mới nhưng còn thiếu sự liên kết, thiếu tinh thần hợp tác và thiếu cán


6 http://hdrstats.undp.org/en/countries/country_fact_sheets/cty_fs_VNM.html

bộ đầu đàn, cán bộ giỏi về kinh tế, quản lý, tài chính ngân hàng, những công trình sư, kỹ sư thực hành giỏi. Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn nhân lực nước ta phát triển không phù hợp với nhu cầu về cơ cấu lao động của nền kinh tế cũng như không đáp ứng được nhu cầu về lao động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Một nghịch lý là: trong khi tỷ lệ lao động thất nghiệp của nền kinh tế cao, hàng năm có một số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp ra trường không tìm được việc làm thì rất nhiều doanh nghiệp (cả doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước lẫn nước ngoài) có nhu cầu tuyển dụng lao động kỹ thuật và quản lý có trình độ nhưng không được đáp ứng.

Nguyên nhân của tình hình trên là do công tác dự báo của Nhà nước về nhu cầu lao động, kể cả số lượng và cơ cấu chưa tốt dẫn đến việc quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế chưa hợp lý, đặc biệt là quy hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý trong các cơ quan QLNN về FDI. Không chỉ thiếu cán bộ QLNN có trình độ chuyên môn, năng lực và phẩm chất trong các cơ quan QLNN về đầu tư nước ngoài, số lao động tham gia quản lý trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như lao động kỹ thuật, đội ngũ công nhân lành nghề cũng không đáp ứng được nhu cầu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại lớn của đối tác Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi tiếp nhận chuyển giao công nghệ, hạch toán kinh doanh… Người lao động chỉ được hưởng mức lương thấp vì do năng suất lao động thấp, không có trình độ chuyên môn cao.

Việc sử dụng lao động trong khu vực FDI còn có những hiện tượng chưa tuân thủ theo pháp luật đầu tư như vi phạm vấn đề trả lương, thời gian lao động, về sử dụng lao động không ký hợp đồng lao động và đặc biệt là vi phạm về nhân phẩm. Theo số liệu của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, từ năm 1995 đến năm 2009, cả nước có gần 4000 cuộc đình công, trong đó 72% xảy ra tại các doanh nghiệp FDI, 90% liên quan tới vấn đề trả lương. Một trong những nguyên nhân của những tồn tại đó là do công tác QLNN về vấn đề này còn có những hạn chế. Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý sử dụng lao động trong khu vực FDI tuy được ban hành

đầy đủ nhưng những quy định này được thể hiện ở những văn bản khác nhau khiến việc tìm hiểu và vận dụng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt với người nước ngoài và người lao động Việt Nam với trình độ kiến thức chuyên môn còn thấp, mức độ am hiểu luật pháp cũng hạn chế.

Hiện nay, theo dõi, xử lý mối quan hệ lao động và người sử dụng lao động do công đoàn – một tổ chức do người lao động thành lập nhưng chi phí hoạt động lại do người sử dụng lao động cấp. Thực tế ở nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức công đoàn không được thành lập. Vì vậy ở một mức độ nhất định nào đó, công đoàn vẫn chưa thể bảo về quyền lợi cho người lao động.

3.4. Chính sách về công nghệ


Mục tiêu của chính sách công nghệ là thu hút công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, thực hiện nội địa hóa công nghệ để tăng cường năng lực nội sinh của công nghệ. Điều này được thể hiện trong các văn bản luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam là thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư theo chiều sâu vào các công ty, xí nghiệp hiện có hoặc thu hút công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu.

Công tác QLNN về chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường thực tế đã được tiến hành ở giai đoạn thẩm định dự án. Nhưng kết quả của công tác thẩm định có được thực hiện hay không lại phụ thuộc vào khâu quản lý thực hiện chuyển giao công nghệ gắn với việc quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ.

Trong những năm qua, cùng với sự hoàn thiện về môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ, công tác điều hành hoạt động chuyển giao công nghệ đã đạt được những thành công đáng kể. Thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra những ngành nghề mới, sản phẩm mới, nguồn lực sản xuất mới, công nghệ mới. Qua từng thời kỳ, hoạt động QLNN về thẩm định, giám định và CGCN cũng được đổi mới từng bước theo hướng giảm thủ tục hành chính, tạo cơ chế thông thoáng cho các doanh

nghiệp, khuyến khích đổi mới, ứng dụng và thương mại hoá công nghệ. Tuy nhiên, xét trên phạm vi của cả nền kinh tế, đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động; yếu tố về công nghệ tuy có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Tồn tại hiện nay của nền kinh tế là đổi mới công nghệ chưa trở thành nhu cầu bức thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp. Điều này dẫn tới thực trạng là trình độ công nghệ của nhiều ngành và doanh nghiệp còn lạc hậu, năng lực công nghệ nhìn chung chậm được cải thiện, nhiều lĩnh vực công nghệ cao chậm được ứng dụng và phổ biến, nhiều sản phẩm kém sức cạnh tranh ngay cả ở thị trường trong nước.

Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu, thiếu tính đồng bộ đang báo động nguy cơ nước ta trở thành bãi rác thải công nghệ của các nước phát triển hơn, do vậy đã làm tăng chi phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, nguy cơ gia tăng mức độ lạc hậu đồng thời gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động.

Nguyên nhân dẫn đến những bất cập đó có những vấn đề ở khâu QLNN:


- Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động CGCN cũng chưa theo kịp với những thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là với các đòi hỏi của kinh tế thế giới. Từ năm 1988 đên trước năm 2006, Nhà nước đã ban hành hơn 30 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến CGCN, trong đó có hiệu lực pháp lý cao nhất là Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành về CGCN chưa thống nhất và đồng bộ. Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định 4 điều mang tính nguyên tắc về CGCN. Những quy định cụ thể chủ yếu nằm trong các văn bản hướng dẫn thi hành, hiệu lực pháp lý thấp, thiếu ổn định, ảnh hưởng tới niềm tin của các chủ thể nắm giữ công nghệ, đặc biệt là các đối tác nước ngoài khi tiến hành đầu tư, CGCN tại Việt Nam. Cho đến năm 2006, Quốc hội mới thông qua luật CGCN.

- Chưa tạo được cơ chế thực sự thông thoáng cho các doanh nghiệp khi tham gia đổi mới và CGCN. Thiếu các chính sách hỗ trợ đồng bộ, khả thi để thúc đẩy hoạt động ứng dụng, đổi mới, thương mại hoá công nghệ trong nước. Phương thức

QLNN trong lĩnh vực này chưa phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động CGCN. Thiếu cơ sở pháp lý cần thiết thúc đẩy việc hình thành và hoạt động của các tổ chức dịch vụ hỗ trợ CGCN (thông tin, tư vấn, môi giới, đánh giá, thẩm định, giám định công nghệ), mặc dù loại dịch vụ này là một yếu tố cấu thành quan trọng, không thể thiếu của thị trường công nghệ.

- Công tác thẩm định phê duyệt hợp đồng chuyển giao công nghệ là vấn đề khó khăn phức tạp trong khi điều kiện đội ngũ cán bộ khoa học kinh tế của nước ta chưa đáp ứng kịp sự phát triển của tiến bộ kỹ thuật. có thể nói chúng ta chưa làm chủ được công nghệ chuyển giao trong khi hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra rộng khắp các ngành, các cơ sở sản xuất kinh doanh.

3.5. Chính sách về xúc tiến đầu tư


Xúc tiến đầu tư là hoạt động của các cơ quan QLNN về đầu tư nước ngoài để kêu gọi vốn cho các dự án đầu tư theo dự định. Hoạt động xúc tiến đầu tư bao gồm hoạt động tuyên truyền, quảng cáo về chính sách thu hút đầu tư của Nhà nước Việt Nam, các dự án kêu gọi đầu tư của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Xúc tiến đầu tư là một hoạt động quan trọng trong quy trình quản lý vốn đầu tư nước ngoài. Bộ kế hoạch đầu tư đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư một cách độc lập hoặc phối hợp với các bộ ngành có liên quan như bộ Công Thương, bộ Khoa học công nghệ và môi trường, phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, và các cơ quan khác để tổ chức các diễn đàn, hội thảo và triển lãm để tuyên truyền, giới thiệu các văn bản đầu tư nước ngoài, sách hướng dẫn đầu tư nước ngoài. Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư, các bộ, ngành, tổng công ty, các địa phương, các cơ quan đại diện của nước ta tại nước ngoài đều thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư để có thể tiến hành hoạt động này một cách thuận lợi và độc lập.

Tuy nhiên, theo đánh giá, hoạt động xúc tiến đầu tư tuy được tiến hành một cách rầm rộ nhưng hiệu quả chưa cao vì còn thiếu thông tin, thiếu kinh phí đầu tư,

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 09/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí