Về Xây Dựng Và Hoàn Thiện Khung Pháp Cho Hoạt Động Của Các Nhtm Và Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước.


Mặc dù giống với các cơ quan bộ khác thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý, nhưng NHNN lại có sự khác biệt so với các cơ quan bộ khác, đó là NHNN quản lý, giám sát đối với hoạt động của các NHTM không chỉ bằng biện pháp hành chính mà bằng các công cụ CSTT. NHNN tác động, điều tiết nền kinh tế và hoạt động của các NHTM phần lớn là qua các công cụ của CSTT, qua đó có sinh lời. Do đó, quản lý đồng thời với hoạt động có sinh lời, góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách là nét đặc thù riêng có của NHNN VN. Đồng thời, NHNN là một loại định chế đặc thù là có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước (Điều 2 - Luật NHNN), vì vậy tổ chức hoạt động và tài chính của NHNN cần phải có cơ chế đặc thù so với cơ quan quản lý nhà nước khác để NHNN có thể thực hiện tốt hơn nữa hai chức năng (chức năng quản lý và chức năng của một Ngân hàng Trung ương).

Mặt khác, trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường tài chính - tiền tệ thế giới và khu vực, đòi hỏi vị thế và vai trò NHNN phải được củng cố. Với địa vị pháp lý và chế độ tài chính hiện hành, NHNN VN khó có thể thực thi một cách có hiệu quả và linh hoạt CSTT để ngăn chặn những thảm hoạ tài chính tiền tệ cũng như quản lý một cách hữu hiệu hoạt động của hệ thống các NHTM được dự đoán là rất sôi động và cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ này trong tương lai.

* Về cấu trúc tổ chức quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước


Cấu trúc tổ chức quản lý, giám sát của NHNN từ trụ sở chính cho đến mạng lưới chi nhánh các tỉnh, thành phố trong cả nước còn cồng kềnh và tầng nấc trung gian. Quan hệ phối kết hợp giữa các đơn vị (cả theo chiều dọc và chiều ngang) từng nơi, từng lúc chưa được chặt chẽ, do đó chưa khai thác triệt để nguồn lực sẵn có. Đội ngũ công chức, viên chức trong các năm vừa qua tuy được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nhưng còn


thiếu chuyên gia đầu ngành; năng lực, trình độ chuyên môn của một bộ phận công chức chưa đáp ứng và theo kịp đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn và hội nhập trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.

2.3.2.5- Về xây dựng và hoàn thiện khung pháp cho hoạt động của các NHTM và quản lý của Ngân hàng Nhà nước.

Mặc dù số lượng các VBQPPL để điều chỉnh hoạt động của NHTM đã được xây dựng, ban hành khá lớn, nhưng nhìn chung vẫn còn một số văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa được ban hành kịp thời và đồng bộ đã tạo ra “khoảng trống pháp lý” trong hoạt động NHTM và công tác quản lý, giám sát của NHNN; chưa có văn bản pháp lý để điều chỉnh kịp thời một số vấn đề phát sinh mới qua thực tiễn hoạt động của NHTM.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

Đến nay một số văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa được ban hành. Đối với nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng : Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng; Nghị định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng; Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngân hàng; Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật phòng, chống rửa tiền…; Đối với thông tư : Thông tư quy định về việc phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu; Thông tư quy định về mua bán nợ của các TCTD, quy định về đảo nợ; Thông tư quy định về trình tự thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng; Thông tư Liên tịch giữa NHNN với Bộ Xây dựng hướng dẫn khoản 2, Điều 61 “Thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai” theo Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23 06 2010 của Chính phủ; Thông tư Liên tịch giữa Bộ Tư pháp và một số bộ liên quan về thu hồi và xử lý tài sản đảm bảo để tháo gỡ khó khăn cho TCTD; một số Thông tư quy định về ngoại hối….


Nâng cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 11

Ngoài ra, một số quy định tại Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự, Luật Đất đai, Luật thi hành án dân sự, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã gây ra những khó khăn, vướng mắc cho hoạt động của các NHTM cần sửa đổi, bổ sung (Phụ lục 5 Pháp luật về ngân hàng).

2.3.2.6- Hoạt động quản lý, điều tiết của NHNN đối với hoạt động của hệ thống các NHTM thông qua một số công cụ chính sách tiền tệ có thời điểm còn bất cập và hiệu quả chưa cao.

Bên cạnh các kết quả đạt được đáng kể nói trên, thì việc quản lý, điều tiết đối với hoạt động của các NHTM thông qua công cụ CSTT cũng còn một số bất cập và hiệu quả chưa cao, thể hiện :

Đối với công cụ tái cấp vốn, thường tập trung cho các NHTM Nhà nước, trong đó chủ yếu là tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định của Chính phủ; thực hiện tái cấp vốn đối với các NHTM khác chưa nhiều, do không đủ điều kiện và giấy tờ có giá. Điều này làm giảm tính linh hoạt của công cụ tái cấp vốn.

Đối với nghiệp vụ thị trường mở : chưa phát huy hết được ưu thế trong việc điều hành vốn khả dụng của các NHTM, do còn một số hạn chế như : phương thức giao dịch, khối lượng mua bán, số thành viên tham gia thị trường mở chủ yếu là các NHTM Nhà nước, hàng hoá trên thị trường còn chưa đa dạng về chủng loại và thời hạn; khả năng hỗ trợ vốn khả dụng chỉ mới tập trung cho một số NHTM có quy mô lớn với thế mạnh về vốn VND và nắm giữ nhiều giấy tờ có giá là thành viên tham gia trên thị trường mở; quy trình phối hợp các công cụ CSTT với một số công cụ quản lý khác đối với hoạt động của các NHTM chưa đồng bộ..

Đối với công cụ lãi suất. Trước năm 2010, NHNN thực hiện việc điều chỉnh và công bố lãi suất cơ bản hàng tháng khá linh hoạt căn cứ vào các diễn biến kinh tế vĩ mô, tình hình cung cầu về vốn trên thị trường,


nhưng thực tế bị khống chế bởi quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2005 (trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản), nên trần lãi suất cho vay thấp. Lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong thời kỳ này, thực chất chưa mang tính dẫn dắt và chưa có tác dụng nhiều trong việc điều tiết lãi suất thị trường, do thị trường mở chưa phát triển và do sự cạnh tranh về lãi suất trong huy động và cho vay của các NHTM.

Mặt khác, trong một số trường hợp NHNN sử dụng công cụ lãi suất mang tính biện pháp hành chính là cần thiết, tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực, nếu duy trì quá lâu biện pháp hành chính này sẽ làm phát sinh các bất cập. Cụ thể :

Để chống lạm phát tăng lên các tháng đầu năm 2008, NHNN thực hiện CSTT thắt chặt, thông qua việc NHNN yêu cầu các NHTM huy động vốn với lãi suất thực dương (lãi suất danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát), nhưng đồng thời lãi suất huy động vốn không được vượt quá 12%/năm. Trong khi đó mức lạm phát các tháng đầu năm 2008 đã tăng lên hơn 9%. Do bị khống chế bởi trần lãi suất huy động vốn theo yêu cầu của NHNN và sự đồng thuận của các NHTM lãi suất huy động vốn không được vượt quá 11%/năm (các NHTM họp để đồng thuận về trần lãi suất huy động dưới sự chủ trì của Hiệp hội Ngân hàng), điều này đã ảnh hưởng đến các NHTM có quy mô nhỏ, khó có thể huy động vốn trong dân cư với mức trần lãi suất này, cùng với việc không được vay tái cấp vốn từ NHNN. Dẫn đến việc các ngân hàng này khó khăn về thanh khoản phải vay trên thị trường liên ngân hàng, nên đã đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng trong năm 2008 có mức cao nhất là 24%.

Tình hình tương tự, trong điều kiện lạm phát tăng lên vào các tháng cuối năm 2010 và năm 2011, NHNN quy định trần lãi suất huy động VND tối đa 14%/năm đối với các NHTM, qua đó nhằm giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, nhưng mục tiêu này trên thực tế không thực hiện được.


Ngoài ra, nếu hoạt động điều hành CSTT của NHNN thông qua các công cụ CSTT nhằm đạt được nhiều mục tiêu (ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội), sẽ phát sinh sự xung đột và mâu thuẩn giữa các mục tiêu.

Điều hành CSTT không thể đạt được đồng thời một lúc nhiều mục tiêu. Lý luận và thực tiễn Việt Nam (phân tích trong phần diễn biến môi trường kinh tế vĩ mô trong phần đầu chương 2) cho thấy: nếu CSTT ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng, thì mục tiêu lạm phát (ổn định giá trị đồng tiền) sẽ khó đạt được. Đương nhiên lạm phát diễn ra sẽ tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội nói chung và đến hoạt động an toàn, lành mạnh của các NHTM trong các năm vừa qua.

Đối với công cụ dự trữ bắt buộc do ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến tình hình thanh khoản của các NHTM và sự ổn định của thị trường tiền tệ, nên từ năm 2011 đến nay NHNN không thực hiện điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND nữa. Mặt khác, do NHNN đã kiểm soát được mức tăng của tín dụng. Chỉ thực hiện điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ nhằm hạn chế tăng trưởng tín dụng ngoại tệ để góp phần thực hiện chủ trương chống đô la hoá.

Nhìn chung, do việc chưa xác định rõ ràng mục tiêu ưu tiên trong điều hành CSTT, nên có một số thời điểm đã làm cho NHNN bị động trong việc hoạch định, điều hành CSTT : phản ứng chậm trước sự thay đổi nhanh chóng của thị trường. Từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động an toàn, lành mạnh của các NHTM.


2.3.2.7- Tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống các Ngân hàng thương mại.

Bên cạnh mặt tích cực của sở hữu chéo như giảm bất cân xứng thông tin giữa ngân hàng và doanh nghiệp, hình thành nên một cơ cấu sở hữu, cơ chế tài trợ và quản trị ổn định giữa các bên; thì sở hữu chéo có thể tạo ra những tác động tiêu cực đến an toàn của từng NHTM nói riêng và của hệ thống các NHTM, các TCTD nói chung (Xem Phụ lục 2 Sở hữu chéo và đầu tư chéo).

2.3.2.8- Hoạt động thanh tra, giám sát chưa theo kịp với sự phát triển đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại.

Tuy hoạt động thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các NHTM trong hơn 15 năm qua đã đạt được các kết quả đáng kể, nhằm góp phần duy trì việc ổn định và phát triển hoạt động của các NHTM, nhưng hoạt động thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các NHTM cũng còn một số vấn đề đặt ra.

Đối với thanh tra tại chỗ : (i) Khả năng phát hiện, cảnh bảo sớm, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro trong hoạt động Thanh tra tại chỗ còn khiêm tốn. (ii)Phương pháp Thanh tra tuân thủ ngày càng tỏ ra kém hiệu quả so với yêu cầu giám sát an toàn hoạt động NHTM trong điều kiện mới. (iii)Việc triển khai Thanh tra trên cơ sở rủi ro tiến hành còn chậm..

Đối với giám sát từ xa : cơ chế giám sát từ xa chưa theo kịp với sự phát triển của hệ thống ngân hàng và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (chỉ mới đáp ứng được một số yêu cầu trong 25 nguyên tắc của Basel… Nguyên nhân là do những điều kiện cần thiết cho việc áp dụng Thanh tra trên cơ sở rủi ro chưa được bảo đảm, trong đó có trình độ nhân lực, khung pháp lý có liên quan và bản thân hạ tầng quản trị rủi ro của NHTM.


TÓM TẮT CHƯƠNG 2


Nhìn lại hơn 25 năm qua, hoạt động của các NHTM ở Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tiếp tục là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế; cung cấp ngày càng đa dạng phong phú các dịch vụ hiện đại tiện ích cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đến nay hệ thống các NHTM không ngừng tăng lên về số lượng, mạng lưới chi nhánh, quy mô tài sản, vốn chủ sở hữu.

Đạt được các thành tựu trên, trong đó có vai trò quản lý của NHNN Việt Nam đối với hoạt động của các NHTM. Tổ chức bộ máy và hoạt động của NHNN Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và nâng cao vai trò quản lý của mình đối với hoạt động của các NHTM. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được nói trên hoạt động của các NHTM Việt Nam, cũng còn không ít tồn tại, hạn chế : tình trạng cạnh tranh chưa lành mạnh giữa các NHTM; hoạt động còn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, rủi ro; tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn trên tổng dư nợ tăng lên; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở một số NHTM chưa đảm bảo theo quy định; vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng và ngân hàng, giữa ngân hàng và DN; tình hình thanh khoản ở một số NHTM có thời điểm còn căng thẳng…Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong hoạt động của các NHTM, ngoài các nguyên nhân : do môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn; do bản thân các NHTM, còn có nguyên nhân từ quản lý của NHNN Việt Nam.

Nhìn chung, chương 2 đã phân tích và làm rõ các kết quả đạt được, cũng như các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong hoạt động của hệ thống các NHTM và vai trò quản lý của NHNN Việt Nam thời gian qua. Từ kết quả của chương 2, đây là căn cứ để đề xuất giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN Việt Nam đối với hoạt động của các NHTM trong thời gian đến ở chương 3.


CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

3.1- Mục tiêu, định hướng nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Mặc dù, cho đến nay NHNN còn đang dự thảo Chiến lược Phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2020, nhưng một số mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng của “Đề án phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010 và định hướng chiến lược đến năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 vẫn còn giá trị cho việc xác định mục tiêu và đề ra định hướng cho việc nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam trong thời gian đến như sau :

3.1.1- Mục tiêu


Quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM, với hiệu quả ngày càng nâng lên khi đạt được các mục tiêu sau : góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các NHTM và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của NHTM; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các NHTM; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.

Để đạt được các mục tiêu trong quản lý nói trên, NHNN cần tiếp tục thực hiện : tập trung chỉ đạo các NHTM hoàn thành việc xử lý, giải quyết nợ xấu; đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu hệ thống các NHTM; đổi mới tổ chức và hoạt động của NHNN để hình thành bộ máy tổ chức tinh gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực, năng lực xây dựng và thực thi CSTT theo nguyên


tắc thị trường dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến; thực hiện các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động NHTW; hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế; phát triển NHNN trở thành NHTW hiện đại, đạt trình độ tiên tiến của các NHTW trong khu vực châu Á; xây dựng và thực thi có hiệu quả CSTT nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế; điều hành linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường; ứng dụng công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng; nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam; CSTT tạo điều kiện huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính; kết hợp chặt chẽ CSTT với chính sách tài khoá để định hướng và khuyến khích công chúng tiết kiệm, đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.

3.1.2- Định hướng nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam

- Nâng cao vị thế của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam


NHNN hoạt động thực sự với tư cách và mang đầy đủ tính chất là NHTW trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ yếu thực hiện chức năng NHTW (ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng, người cho vay cuối cùng, cơ quan điều tiết thị trường tiền tệ và trung tâm thanh toán) và chức năng quản lý đối với lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.

Nhiệm vụ của NHNN chủ yếu nhằm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng, góp phần tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế - xã hội. NHNN độc lập, tự chủ trong việc xây dựng, điều hành CSTT, lãi suất và tỷ giá hối đoái.


Nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của NHNN trong việc tổ chức thực hiện chiến lược, xây dựng và điều hành CSTT trên cơ sở phân định rõ quyền hạn, nhiệm vụ và hạn chế sự can thiệp của các cơ quan liên quan vào quá trình xây dựng và thực thi CSTT, pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

Quan hệ giữa NHNN với các Bộ, ngành và các TCTD cần được phân định rõ; đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN với các cơ quan chức năng, đặc biệt là Bộ Tài chính trong xây dựng và điều hành CSTT. NHNN có trách nhiệm và quyền hạn chủ chốt trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các NHTM, TCTD , đồng thời phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong việc quản lý, giám sát toàn bộ hệ thống tài chính.

NHNN không trực tiếp chỉ đạo tác nghiệp và can thiệp vào quyết định kinh doanh của các TCTD, NHTM thuộc mọi thành phần kinh tế. NHNN có đủ nguồn lực và độc lập tương đối về nghiệp vụ, tổ chức và tài chính, hoạt động với cơ chế khác với các cơ quan hành chính - sự nghiệp, nhưng dưới sự giám sát của Chính phủ và Quốc hội.

- Định hướng đổi mới điều hành chính sách tiền tệ


Điều hành CSTT theo nguyên tắc thận trọng, linh hoạt và hiệu quả trên nền tảng các công cụ CSTT hiện đại và công nghệ tiên tiến. Mục tiêu bao trùm của CSTT trong giai đoạn này là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và góp phần tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.

Xây dựng và thực thi CSTT theo nguyên tắc thị trường. Nâng cao năng lực của NHNN trong điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái thông qua việc đổi mới, hoàn thiện các công cụ CSTT, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái và lãi suất đồng bộ với việc phát triển thị trường tiền tệ phù hợp thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam. Tăng cường sự phối


hợp đồng bộ giữa các công cụ của CSTT và sự phối hợp, đồng bộ nhịp nhàng giữa CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài khóa, chính sách thương mại, chính sách đầu tư…). NHNN cần kiểm soát về cơ bản toàn bộ khối lượng tiền và các luồng tiền trong nền kinh tế.

Thực hiện điều hành CSTT dựa trên cơ sở điều tiết khối lượng tiền; đồng thời xây dựng các điều kiện cần thiết để chuyển dần sang thực hiện điều hành CSTT trên cơ sở điều tiết lãi suất. Tạo lập các điều kiện cần thiết chuyển sang điều hành CSTT theo cơ chế lạm phát mục tiêu.

- Định hướng đổi mới chính sách quản lý ngoại hối


Tăng cường khả năng và mức độ bao quát của NHNN trong việc quản lý, giám sát các giao dịch ngoại hối trong nước và quốc tế, đồng thời có biện pháp hữu hiệu hạn chế, kiểm soát hiện tượng đào thoát vốn đầu tư ra nước ngoài. Thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính.

Từng bước nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam và tạo nền tảng cho đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi theo hướng trước mắt bảo đảm đồng tiền Việt Nam được tự do chuyển đổi trên các giao dịch vãng lai và từng bước được chuyển đổi trên các giao dịch vốn.

Thu hẹp phạm vi sử dụng đồng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam và giảm dần tình trạng đô la hóa. Nâng cao trách nhiệm và khả năng của các NHTM trong việc đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ đi đôi với việc nới lỏng hạn chế và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tiếp cận thị trường ngoại hối.

Tăng nhanh dự trữ ngoại hối nhà nước. Thực hiện các biện pháp quản lý tập trung, thống nhất dự trữ ngoại hối nhà nước tại NHNN. Tập trung các


nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng. Thực hiện chính sách ngoại hối mở để khuyến khích xuất khẩu và thu hút nguồn ngoại tệ chảy vào nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, theo cơ chế thị trường và theo hướng gắn với một rổ các đồng tiền của các đối tác thương mại, đầu tư quan trọng của Việt Nam. Nới lỏng dần biên độ giao dịch của tỷ giá chính thức, tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp để điều hành tỷ giá hối đoái. Giảm mạnh và tiến tới xoá bỏ sự can thiệp hành chính vào thị trường ngoại hối.

Phát triển mạnh thị trường ngoại hối và các thị trường tiền tệ phái sinh theo các thông lệ quốc tế. NHNN chỉ can thiệp thị trường và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của đất nước chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu CSTT và bình ổn thị trường tiền tệ.

Nâng cao năng lực quản lý và can thiệp thị trường ngoại tệ của NHNN thông qua các nghiệp vụ thị trường. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về ngoại hối để tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường ngoại hối phát triển, các TCTD mở rộng hoạt động ngoại hối và các tổ chức, cá nhân tiếp cận một cách thuận lợi các nguồn ngoại hối. Thu hẹp đáng kể hoạt động ngoại hối không chính thức.

- Định hướng phát triển hệ thống giám sát ngân hàng


Trên cơ sở bộ máy Thanh tra NHNN hiện có, xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại và hữu hiệu (về thể chế, mô hình tổ chức, con người và phương pháp) nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và thực hiện đúng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng.

Từng bước tạo tiền đề xây dựng được Cơ quan Giám sát tài chính tổng hợp, có vị thế và vai trò cao hơn trong việc thực hiện chức năng giám

Xem tất cả 147 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí