Các mục tiêu của kế hoạch chiến lược sẽ hợp lý và có tính khả thi. Việc thực hiện các cuộc điều tra lấy ý kiến phản hồi từ các NHTM và các đơn vị có liên quan là một biện pháp quan trọng để nâng cao cơ chế chịu trách nhiệm đối với các NHTM và đồng thời cũng là công cụ để hỗ trợ cho việc xây dựng chiến lược phát triển Ngân hàng của NHNN Việt Nam.
3.3.4- Giải pháp tiếp tục nâng cao vị thế độc lập; hoàn thiện cấu trúc tổ chức quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước theo hướng Ngân hàng Trung ương hiện đại
3.3.4.1- Tiếp tục nâng cao vị thế độc lập của Ngân hàng Nhà nước theo hướng Ngân hàng Trung ương hiện đại
Lý luận và thực tiễn tại nhiều nước cho thấy để nâng hiệu quả quản lý của NHTW, thì điều kiện tiên quyết đó là NHTW phải có vị thế độc lập trong quản lý, giám sát, điều tiết đối với các hoạt động NHTM. Vị thế độc lập sẽ tạo cơ sở cho NHTW chủ động trong việc ra quyết định kịp thời và chịu trách nhiệm về các biện pháp quản lý của mình, mà không bị phụ thuộc vào sự can thiệp mang tính chất chính trị.
Có thể minh chứng cụ thể qua kết quả nghiên cứu của Nhóm nghiên cứu (2012) thuộc Uỷ ban Kinh tế Quốc hội cho thấy : Trong điều kiện thị trường có nhiều biến động khó lường, đòi hỏi điều hành của NHNN cần linh hoạt hơn thì việc bị giới hạn bởi chỉ tiêu cung ứng tiền được xác định trước hàng năm hoặc hàng quý (mặc dù cũng có thể điều chỉnh) đã hạn chế tính chủ động của NHNN trong việc điều tiết thị trường, có thể gây ra sự biến động của lãi suất thị trường, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng. Chẳng hạn, trong trường hợp vốn của NHTM thiếu hụt lớn, vượt quá lượng tiền cung ứng được duyệt, nếu NHNN không bơm tiền ra đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường do bị giới hạn bởi chỉ tiêu cung ứng tiền, lãi suất thị trường sẽ biến động tăng mạnh, gây bất ổn cho thị trường tiền tệ.
Để NHTW có được vị thế độc lập, cần đảm bảo một số yếu tố sau :
(i) có đầy đủ các nguồn lực cần thiết (nguồn lực tài chính, nguồn lực nhân sự) để NHTW thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; (ii) quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn trong quản lý của NHTW; (iii) trong hoạt động quản lý của NHTW phải theo một quy trình quản lý nhất quán và rõ ràng.
Do đó, giai đoạn từ nay đến năm 2020 tiếp tục từng bước nâng cao vị thế độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo hướng NHTW hiện đại trong việc thực hiện chức năng NHTW (ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng, người cho vay cuối cùng, cơ quan điều tiết thị trường tiền tệ và trung tâm thanh toán) và chức năng quản lý, giám sát đối với hoạt động của hệ thống các NHTM bảo đảm an toàn; là một trong các định hướng chiến lược quan trọng đã được xác định theo Đề án phát triển ngành Ngân hàng định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 và ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị theo Thông báo số 191-TB/TW ngày 01/9/2005. Nâng cao vị thế độc lập của NHTW ở đây, chỉ là độc lập tương đối.
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Đối Với Hoạt Động Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
- Về Xây Dựng Và Hoàn Thiện Khung Pháp Cho Hoạt Động Của Các Nhtm Và Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước.
- Cơ Hội, Thách Thức Trong Việc Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Của Các Nhtm Ở Việt Nam
- Giải Pháp Hoàn Thiện Cơ Chế Thanh Tra, Giám Sát Đối Với Hoạt Động Nhtm
- Giải Pháp Về Thúc Đẩy Sự Hợp Tác, Cạnh Tranh Lành Mạnh Giữa Các Nhtm
- Nguyên Tắc Cơ Bản Về Giám Sát Hệ Thống Ngân Hàng Hiệu Quả Của Uỷ Ban Basel
Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.
Thời gian qua vị thế của NHNN được bàn bạc, xem xét đến, nhưng cho đến hiện nay, vị thế NHNN vẫn là cơ quan trực thuộc Chính phủ.
Nếu xét theo giác độ thể chế chính trị, thì NHNN là một đơn vị trực thuộc Chính phủ, giống như các bộ, ngành khác, NHNN có chức năng quản lý nhà nước và chịu sự quản lý, điều hành toàn diện về tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Theo quy định tại Điều 2 Luật NHNN năm 2010 thì :“Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là NHTW của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối…”.
Để cụ thể hoá chức năng quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, tại Điều 4 Luật NHNN năm 2010 quy định NHNN có 15 nhiệm vụ, quyền hạn có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đối với quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng. Nhìn chung, các nhiệm vụ này và cấu trúc tổ chức của NHNN theo quy định của Luật NHNN năm 2010 thì Quốc hội giao cho Chính phủ quy định cụ thể.
Nếu xét theo giác độ về mặt tài chính, thì hoạt động của NHNN có liên quan đến tài chính đều do Chính phủ hoặc Thủ tướng quy định. Đối với những nội dung thu, chi tài chính phù hợp với hoạt động nghiệp vụ đặc thù của NHNN do Thủ tướng Chính phủ quy định, nhưng về nguyên tắc phải theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Do đó, từ nay đến năm 2020 kỳ vọng đổi mới Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo mô hình NHTW hiện đại có vị thế độc lập hoàn toàn, là khó khăn. Tuy nhiên, có thể kỳ vọng đổi mới Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo mô hình NHTW hiện đại có vị thế độc lập tương đối là khả thi, trên cơ sở các điều kiện và triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể sau :
- NHTW được chủ động sử dụng các công cụ trong việc điều hành CSTT và được độc lập trong việc xác định khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Việc giao cho NHTW được độc lập trong việc xác định khối lượng tiền cung ứng, sẽ nâng cao được vai trò của NHTW trong việc chủ động linh hoạt điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động đến lãi suất thị trường, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các NHTM.
- Nâng cao năng lực hoạch định, điều hành CSTT của NHTW.
- Triển khai thực hiện điều hành CSTT lạm phát mục tiêu. Thực tiễn của nhiều nước và của Việt Nam trong thời gian cho thấy, với CSTT trong ngắn hạn để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã xung đột với mục tiêu ổn
định giá, làm cho lạm phát tăng cao, tác động mạnh đến nền kinh tế trong đó hệ thống NHTM phát sinh nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý của NHNN.
3.3.4.2- Hoàn thiện cấu trúc tổ chức quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc tổ chức của hệ thống NHNN bao gồm từ trung ương đến 63 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố theo hướng hiện đại, tinh gọn và có hiệu lực. Tổ chức lại NHNN, sắp xếp lại các Vụ, Cục theo hướng tập trung quản lý, điều hành; nâng cao năng lực nghiên cứu, phân tích, dự báo và tính chuyên môn hoá của các đơn vị; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quan hệ phối hợp giữa các đơn vị.
Cơ cấu lại các chi nhánh NHNN theo hướng tập trung và không áp dụng một cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ đồng nhất đối với tất cả các chi nhánh NHNN; đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hình thành các chi nhánh NHNN khu vực, không nhất thiết bố trí chi nhánh NHNN theo địa giới hành chính (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
Tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó tập trung vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất đạo đức tốt, đủ trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh cho các vị trí công việc và tiêu chuẩn nghề nghiệp cho cán bộ, công chức ngân hàng. Tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức NHNN theo tiêu chuẩn chức danh đã ban hành. Tuyển chọn, sắp xếp, bố trí sử dụng cán bộ, công chức đủ tiêu chuẩn theo chức danh, chứng chỉ nghề nghiệp theo vị trí công việc.
Bên cạnh đó, tập trung đào tạo để có được đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong những lĩnh vực quan trọng, như khối hoạch định và điều hành
chính sách, khối thanh tra giám sát, lĩnh vực thanh toán, công nghệ ngân hàng…
3.3.5- Giải pháp xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của các NHTM và quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
Để góp phần hoàn thiện quản lý đối với hoạt động NHTM, NHNN cần chú trọng tập trung việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động NHTM theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, đây là một trong các nhân tố quan trọng để thúc đẩy, hỗ trợ tích cực cho hoạt động của NHTM phát triển ổn định, an toàn và bền vững; với các yêu cầu và giải pháp :
Xây dựng kế hoạch, tiến độ, có biện pháp cụ thể và bố trí đủ nguồn nhân lực, vật lực để hoàn thành việc ban hành chi tiết và hướng dẫn thi hành đối với các văn bản luật, pháp lệnh do Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành thời gian qua; cần chú trọng việc nâng cao chất lượng công tác xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trước mắt, nhanh chóng xây dựng trình cấp thẩm quyền ban hành hoặc ban hành trong phạm vi được uỷ quyền hoặc phối hợp các cơ quan có liên quan xây dựng ban hành hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật NHNN, Luật các TCTD năm 2010, Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật phòng, chống rửa tiền, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ngoại hối đã ban hành; xây dựng cơ chế hoạt động và quy tắc ứng xử trên thị trường liên ngân hàng; cơ chế giám sát hoạt động của thị trường liên ngân hàng; hoàn thành các quy định về : khung pháp lý cho việc thành lập tổ chức xếp hạng tín nhiệm đối với các NHTM; điều chỉnh các loại hình dịch vụ mới của ngân hàng; về việc thành lập và vận hành trung tâm thanh toán bù trừ.
Cụ thể, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, như sau :
Đối với nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng : Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng; Nghị định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng; Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngân hàng; Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật phòng, chống rửa tiền…;
Đối với thông tư : Thông tư quy định về việc phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu; Thông tư quy định về mua bán nợ của các TCTD, quy định về đảo nợ; Thông tư quy định về trình tự thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng; Thông tư Liên tịch giữa NHNN với Bộ Xây dựng hướng dẫn khoản 2, Điều 61 “Thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai” theo Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23 06 2010 của Chính phủ; Thông tư Liên tịch giữa Bộ Tư pháp và một số bộ liên quan về thu hồi và xử lý tài sản đảm bảo để tháo gỡ khó khăn cho TCTD; một số Thông tư quy định về ngoại hối….
3.3.6- Giải pháp hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ trong việc quản lý, điều tiết đối với hoạt động của hệ thống các NHTM
- Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Để công cụ nghiệp vụ thị trường mở phát huy vai trò là một kênh cung ứng, điều tiết vốn khả dụng hàng ngày cho các NHTM và là công cụ trong quản lý điều tiết có hiệu quả của NHNN đối với hoạt động của các NHTM, qua đó nhằm thực hiện các mục tiêu của CSTT quốc gia, cần thực hiện các giải pháp sau :
+ Củng cố và phát triển thị trường tiền tệ, không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả công cụ nghiệp vụ thị trường mở mà còn nhằm nâng cao việc hoạch định điều hành CSTT và hiệu quả quản lý, giám sát của NHNN đối
với hoạt động của các NHTM, sẽ được phân tích và đưa thành mục riêng trong chương này.
+ Nâng cao hiệu quả công tác thu thập, dự báo tiền tệ, phân tích và dự báo vốn khả dụng của các NHTM (khả năng thừa hay thiếu vốn khả dụng), qua đó NHNN có thể thực hiện điều chỉnh kịp thời vốn khả dụng của các NHTM, bơm thêm vốn cho NHTM khi thiếu hụt và hút khi NHTM thừa; đồng thời qua kênh này NHNN sẽ tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ theo các mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ.
+ Thực hiện việc rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng ban hành mới các cơ chế, quy chế về thị trường mở theo hướng tạo điều kiện thuận lợi để thu hút thành viên tham gia thị trường.
+ Tiếp tục nghiên cứu để phát triển hàng hoá trên thị trường theo hướng đa dạng về chủng loại và thời hạn, với các giải pháp cụ thể : (i) Thực hiện việc rà soát các quy định còn bất cập, trên cơ sở đó sửa đổi, bổ sung các nội dung cần thiết của những giấy tờ có giá hiện có nhằm tăng thêm tính hấp dẫn cho các thành viên tham gia thị trường mở khi nắm giữ các giấy tờ có giá này; (ii) Nghiên cứu bổ sung một số giấy tờ có giá khác để tham gia giao dịch trên thị trường : chứng chỉ tiền gửi do NHTM phát hành; thương phiếu….
Việc nghiên cứu bổ sung này đòi hỏi phải có lộ trình phù hợp, cùng với việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định chặt chẽ để đảm bảo an toàn, lợi ích cho các chủ thể tham gia thị trường mở.
+ NHNN cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính (Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước) để xây dựng ban hành cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích và quản lý chặt chẽ việc chứng khoán hóa của các NHTM và doanh nghiệp.
+ Nâng cao hiệu quả việc ứng dụng công nghệ hiện đại đối với hệ thống thanh toán liên ngân hàng, phát triển thị trường liên ngân hàng. Cụ thể :
(i) Xây dựng nâng cấp đường truyền tốc độ cao; (ii) Hoàn thiện hệ thống trao đổi thông tin trong nội bộ của NHNN và giữa NHNN với các NHTM là thành viên tham gia thị trường mở; (iii) Chuẩn hoá cơ sở phần mềm phục vụ công tác quản lý hoạt động thị trường mở của NHNN; (iii) Nâng cao chất lượng trang web về thông tin hoạt động thị trường mở. (iv) Xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia có khả năng quản lý, vận hành thông suốt các nghiệp vụ thị trường.
- Đối với một số công cụ chính sách tiền tệ mang biện pháp hành chính trực tiếp (như quy định trần lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên), thời gian qua đã mang lại các tác dụng tích cực đáng kể. Tuy nhiên, trong thời gian đến quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM và xử lý nợ xấu đã hoàn thành cơ bản, cần dừng các biện pháp can thiệp mang tính hành chính này, trả lại cho thị trường quyết định.
Đương nhiên, NHNN không thả nổi lãi suất thị trường, mà có sự can thiệp gián tiếp thông qua việc điều hành công cụ gián tiếp (lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở) để tác động có lợi cho nền kinh tế và nhằm thực hiện mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ nhất định.
Lý luận và thực tiễn cho thấy, nếu duy trì sử dụng biện pháp can thiệp mang tính hành chính (trần lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND), sẽ tạo ra sự ỷ lại của bên đi vay là các doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn sẽ không cao, phát sinh nợ xấu, làm giảm sức cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế và hệ quả sẽ gây sức ép đối với các NHTM trong việc cấp tín dụng.
Do đó, biện pháp hành chính thường mang tính chất tình thế, cấp bách nhằm đạt mục tiêu cao nhất là để ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng, nếu kéo dài sẽ không có lợi cho thị trường và cho cả nền kinh tế.
- Đối với các công cụ lãi suất, tỷ giá.
Việc điều hành lãi suất cần được điều chỉnh ngày càng linh hoạt theo hướng thị trường và mục tiêu điều hành CSTT; và gắn kết chặt chẽ với điều hành tỷ giá. Để hoàn thiện công cụ lãi suất, NHNN cần lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với điều kiện của thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay (giai đoạn đầu của phát triển, ở mức độ thấp) và dựa trên cơ sở quy định của Luật NHNN và Luật Các tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở lãi suất định hướng (lãi suất tái cấp vốn - là lãi suất trần, lãi suất chiết khấu - làm lãi suất sàn; hoặc sử dụng mức lãi suất ở giữa mức lãi suất tiền gửi tại NHTW và lãi suất cho vay của NHTW làm định hướng; hoặc kết hợp sử dụng lãi suất chiết khấu và lãi suất liên ngân hàng làm định hướng; hoặc sử dụng lãi suất thị trường mở làm lãi suất định hướng khi quy mô hoạt động nghiệp vụ thị trường mở phát triển) của một số nước và tình hình thực tế của Việt Nam, thì NHNN cần lựa chọn lãi suất tiền gửi của các NHTM tại NHNN làm lãi suất sàn và lãi suất cho vay qua đêm của NHNN làm lãi suất trần. Giữa lãi suất cho vay qua đêm của NHNN đối với NHTM (gọi là lãi suất trần) và lãi suất tiền gửi tại NHNN (lãi suất sàn) có khoản chênh lệch nhất định, còn gọi là “hàng lang lãi suất”.
Các NHTM thực hiện giao dịch liên ngân hàng chủ yếu thông qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, trường hợp cuối ngày thiếu hụt tạm thời về thanh khoản, sẽ tham gia trên thị trường mở hoặc đi vay NHTM khác. Nếu không đáp ứng được nhu cầu tạm thời thiếu hụt trong
thanh toán này thông qua thị trường mở hoặc không vay được NHTM khác, NHTM sẽ được NHNN là người cho vay cuối cùng (với lãi suất cho vay qua đêm) để bù đắp thiếu hụt tạm thời về thanh toán, trên cơ sở NHTM này phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của NHNN (có thiếu hụt tạm thời về thanh toán, phải có tài sản cầm cố…).
Để tác động đến các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ, đặc biệt là lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, hiện nay NHNN sử dụng lãi suất chào mua kỳ hạn 7 ngày trên thị trường mở. Lãi suất chào mua kỳ hạn 7 ngày này nằm trong “hành lang lãi suất” trên đây do NHNN quy định, được xem như là “lãi suất định hướng thị trường” và là tín hiệu của NHNN đến thị trường.
Đối với công cụ tỷ giá, cần được tiếp tục điều hành một cách linh hoạt, bám sát theo diễn biến cung - cầu ngoại tệ trên thị trường, cùng với các biện pháp cần thiết khác nhằm nâng cao niềm tin đối với đồng nội tệ, hạn chế tình trạng đô la hoá.
- Đối với công cụ tái cấp vốn.
Thực chất công cụ “tái cấp vốn” của NHNN nhằm hỗ trợ tạm thời sự thiếu hụt về nguồn vốn ngắn hạn trong quá trình hoạt động kinh doanh của các NHTM theo nguyên tắc hoàn trả. Do đó, tiếp tục nâng cao vai trò của công cụ “tái cấp vốn” nhằm hỗ trợ tạm thời sự thiếu hụt về nguồn vốn ngắn hạn trong quá trình hoạt động kinh doanh của các NHTM thông qua các hình thức : cấp tín dụng ngắn hạn; cung ứng phương tiện thanh toán; là người “cho vay cuối cùng” đối với các NHTM.
Lãi suất trong cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu bao gồm : lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất này cần được điều chỉnh linh hoạt hơn, không chỉ căn cứ theo diễn biến thị trường mà còn căn cứ vào mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ.
3.3.7- Giải pháp về xử lý sở hữu chéo trong hệ thống các Ngân hàng thương mại.
NHNN cần có đánh giá đầy đủ về sở hữu chéo trong hệ thống NHTM : các mặt tích cực của sở hữu chéo, cũng như những tác động tiêu cực đến an toàn của từng NHTM, hệ thống các NHTM. Từ đó, rà soát lại các quy định pháp lý để tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng ban hành mới các quy định để kiểm soát, hạn chế, ngăn ngừa các tác động tiêu cực của sở hữu chéo đem lại đối với NHTM. Đồng thời có biện pháp xử lý hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của sở hữu chéo, để góp phần thực hiện thành công Đề án Cơ cấu lại hệ thống các NHTM, TCTD giai đoạn đến năm 2015.
Cần xác định rõ mục tiêu việc xử lý sở hữu chéo là nhằm góp phần bảo đảm cho từng NHTM, cũng như hệ thống các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh, bền vững và minh bạch; phản ánh đúng thực lực tình hình tài chính của NHTM và hệ thống các NHTM.
Quan điểm về xử lý sở hữu chéo là thận trọng, triệt để, với lộ trình xử lý phù hợp để giữ ổn định từng NHTM và hệ thống các NHTM; giải pháp xử lý phải toàn diện bao gồm sửa đổi, hoàn thiện hoặc ban hành mới cơ chế, chính sách để hạn chế sở hữu chéo và quy định an toàn hoạt động ngân hàng; xử lý đồng bộ, toàn diện và triệt để nhưng có tính đến đặc điểm của từng NHTM cụ thể.
Xuất phát từ mục tiêu, quan điểm về xử lý sở hữu chéo trên đây, cần đẩy mạnh triển khai việc thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, Tập trung thanh tra, giám sát, rà soát, chấn chỉnh, xử lý các trường hợp vi phạm các quy định có liên quan đến vấn đề sở hữu chéo của các NHTM (quy định về sở hữu vốn điều lệ; việc góp vốn, mua cổ phần; chuyển nhượng cổ phiếu; việc cấp tín dụng cho cổ đông và người có
liên quan…). Xây dựng và ban hành lộ trình phù hợp để giảm sở hữu vốn lẫn nhau giữa các NHTM, TCTD; tạo điều kiện cho các NHTM, TCTD thoái vốn ở các NHTM, TCTD và các công ty con, công ty liên kết hoạt động không có hiệu quả.
Thứ hai, Xác minh, làm rõ thực chất nguồn lực tài chính của các cổ đông khi tham gia góp vốn, mua cổ phần tại NHTM. Để đảm bảo nguồn vốn của các cổ đông là cá nhân, tổ chức đầu tư vào NHTM là hợp pháp và phản ánh đúng thực lực tình hình tài chính của họ, khi xem xét việc tăng vốn điều lệ của các NHTM, NHNN tăng cường công tác xác minh nguồn tiền của các cổ đông và “người có liên quan” khi tham gia góp vốn, mua cổ phần tại các NHTM (thông qua các hồ sơ chứng minh năng lực tài chính và quan hệ tín dụng tại các NHTM).
Thứ ba, Giám sát chặt chẽ quan hệ tín dụng của các đối tượng có sở hữu chéo. Trong đó, NHNN giám sát chặt chẽ quan hệ tín dụng của những cổ đông và người có liên quan tại các NHTM có liên quan để một mặt đánh giá khả năng tài chính của cổ đông; mặt khác, ngăn chặn, phát hiện và xử lý tình trạng thao túng, chi phối ngân hàng dẫn đến vi phạm giới hạn cấp tín dụng cho cổ đông và người liên quan.
Thứ tư, Phối hợp chặt chẽ với Ủy ban chứng khoán theo dõi, giám sát việc mua bán, chuyển nhượng cổ phần của các NHTM trên thị trường chứng khoán.
Thứ năm, Trong các phương án tái cấu trúc của các NHTM, NHNN yêu cầu NHTM vi phạm các quy định về sở hữu chéo, đầu tư, giới hạn sở hữu vốn và cấp tín dụng cũng như các quy định an toàn khác phải có biện pháp xử lý theo hướng : đối với cổ đông, nhóm cổ đông mới nhận chuyển nhượng cổ phần, vốn góp từ các cổ đông trước đây tại NHTMCP yếu kém phải chứng minh có đủ năng lực tài chính, không sử dụng vốn vay, vốn