7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các công thức toán thống kê để xử lý số liệu thu được trong đề tài.
8. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lý hoạt động giáo dục y đức cho sinh viên trường Cao đẳng y tế
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục y đức cho sinh viên trường Cao đẳng y tế Thái nguyên, tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục y đức cho sinh viên trường Cao đẳng y tế Thái nguyên, tỉnh Thái Nguyên
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động giáo dục y đức cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên - 1
- Quản lý hoạt động giáo dục y đức cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên - 2
- Bản Chất Quản Lý Và Một Số Đặc Trưng Của Hoạt Động Quản Lý
- Giáo Dục Y Đức Trong Quá Trình Đào Tạo Cán Bộ Y Tế
- Phương Pháp Giáo Dục Y Đức Trong Quá Trình Đào Tạo
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
Từ trước đến nay ngành y là một ngành vô cùng quan trọng vì đối tượng của ngành y là sức khỏe, là tính mạng của con người. Chính vì thế vấn đề y đức từ lâu đã là một vấn đề được nhiều quốc gia quan tâm.Và không phải đến bây giờ vấn đề y đức mới được đề cập đến.Từ xa xưa đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề này ở những mức độ khác nhau. Qua các giai đoạn lịch sử, các triều đại, y đức được đề cập tới bằng các điều luật áp dụng cho ngàng y qua lời thề, qua các tuyên ngôn về y tế của tổ chức y tế thế giới.
Thời Ấn Độ cổ đại, Kinh Veda Harak nêu cách lựa chọn, đào tạo và đặc điểm thầy thuốc: Chọn lọc người học ngành y phải từ 16 tuổi trở lên, có phẩm chất, có thể lực, có mục đích tốt và phải xuất thân từ một gia đình tốt. Khi nhập học, phải có cam kết hy sinh cả cuộc đời để cứu chữa bệnh nhân, không được đụng đến của cái của họ, không được làm phật lòng họ. Có quyền được vào nhà bệnh nhân với mục đích trong sáng vì chữa bệnh và có cách xử thế đàng hoàng. Tiêu chuẩn hạnh kiểm của thầy thuốc: lòng trắc ẩn, sự niềm nở, nhẫn nại, chủ động, bình tĩnh, lạc quan hy vọng. Đối với bệnh nhân thầy thuốc là cha. Đối với người đang bình phục thầy thuốc là người bảo vệ. Đối với người khỏe thầy thuốc là bạn. [25]
Thời cổ đại Hy Lạp chú ý xây dựng đạo đức thầy thuốc trên cơ sở những mối quan hệ giữa người và người. Cùng với La mã cổ đại, Hy lạp cổ đại có nhiều nhà tư tưởng lớn, học giả lớn để tâm đến đạo đức học. Aristot cho rằng chỉ có con người mới có khả năng thu nhận một cách nhạy cảm những khái niệm về tốt, xấu, công bằng, bất công và nhấn mạnh: “Con người không có cái gốc đạo đức thì chỉ là một con vật xấu xa và mọi rợ nhất, một con vật thấp hèn với bản năng
sinh vật và hưởng thụ của nó”. Người ta đề cao phẩm chất con người có trí thức cao, đạo đức trong sáng, lòng nhân đạo, tinh thần dũng cảm như là một lý tưởng, là mục tiêu giáo dục thanh niên. Lời thề khi nhập môn và ra trường xuất phát từ mục đích hành nghề: Khi nhập môn phải nghe lời huấn thị trước bàn thờ: phải sống trong sạch, không được có những ham muốn quá độ, như sự hận thù, dâm ô, ghen tị, tự kiêu, thô bạo, tham lam xảo quyệt,... mà phải sống khiêm tốn, cần cù, yêu đời, từ bỏ cả thức ăn có thịt,... Lời thề ra trường của phái Asclépiat là những chuẩn mực, nguyên tắc hành nghề, đạo đức của thầy thuốc: “ Tôi xin thề rằng, trước vị giáo thụ là Apollon, Esculape, Hygie, và Panace, trước tất cả thần linh nam nữ, xi các vị chứng kiến cho là, tôi sẽ đem hết khả năng, sức lực và trí tuệ để thực hiện lời thề nay của tôi và hứa viết trên giấy này, đối với thầy dạy tôi nghệ thuật, tôi kính trọng nh ư cha mẹ và chia sẻ với thầy mọi phương tiện sinh sống và chăm lo mọi nhu cầu của thầy; Đối với con của thầy tôi xem như anh chị em ruột và họ muốn theo nghề này tôi sẽ truyền thụ lại không lấy tiền và không mặc cả trước. Những đơn thuốc và mọi học thuyết còn lại, tôi sẽ truyền lại cho con tôi, con của thầy tôi và cho học trò của tôi, với những người này sẽ có một giấy cam kết phù hợp với luật lệ y học, ngoài những người này ra tôi sẽ không truyền cho một người nào khác nữa. Tôi sẽ cố gắng hết sức lực và trí tuệ để xây dựng lối sống cho bệnh nhân theo lợi ích của họ và sẽ ngăn ngừa cho họ mọi tổn hại và thiếu sót. Dù cho có van nài đến mấy, tôi cũng không cho bất cứ thứ thuốc độc chết người, và cũng không chỉ bảo cho ai về thứ thuốc đó. Cũng như dứt khoát là tôi không bao giờ cho một người phụ nữ nào phương tiện phá thai. Tôi sẽ giữ gìn cuộc sống và học thuật của tôi một cách thành kính và trong sách. Tôi sẽ không bao giờ làm thủ thuật mổ xẻ bằng đá và giành các thủ thuật này cho các chuyên gia khác làm. Tôi không vào bất cứ nhà nào, và chỉ tới đó khi cần cứu chữa bệnh nhân mà thôi, và không có bất cứ một ý đồ nào làm hại bệnh nhân hoặc có tham vọng nhục dục đối với phụ nữ hay nam giới, đối với người tự do hay nô lệ. Khi hành nghề tôi phải giữ im lặng những điều được xem là bí mật
hoặc những điều tâm phúc mà tôi biết. Nếu tôi thức hiện được lời thề mà không bội tín, tôi được xem như là người có thể hưởng hạnh phúc trong cuộc sống, trong học thuật và luôn luôn được mọi người kính trọng, và nếu tôi làm sai lời thề thì số phận của tôi ngược lại”. [25]
Trong thời kì Hy Lạp cổ đại "Y nghĩa vụ luận" đầu tiên được soạn thảo vào khoảng 500 năm trước công nguyên, vào thời kỳ thịnh vượng nhất của nước Hy Lạp cổ đại, do Hyppocrate và trường phái của ông đã phát triển những lời hứa trong lời thề Asclepios. Lời thề Hyppocrate có đoạn trích "Tôi sẽ săn sóc miễn phí cho người nghèo và không bao giờ đòi hỏi một thù lao quá đáng so với công việc làm. Được mời đến tư gia, mắt tôi sẽ không chú ý đến mọi sự việc xảy ra, miệng tôi sẽ giữ kín những bí mật đã tiết lộ. Tôi sẽ không lợi dụng địa vị của mình làm đồi bại phong tục hoặc tán trợ tội ác. Một lòng tôn trọng và biết ơn thầy, tôi sẽ truyền bảocho con cháu các thầy những giáo huấn mà tôi đã được lãnh hội. Nếu tôi giữ chọn lời thề, người đời sẽ quý mến. Nếu thất hứa, tôi sẽ mang mối ô danh và cam chịu sự khinh bỉ của các bạn đồng nghiệp". [34]
Thời La mã cổ đại Là vùng trung tâm văn minh của thế giới, cũng như thời Hy lạp cổ đại, thời La mã cổ đại đã để lại nhiều công trình và chuẩn mực đạo đức. Hội thầy thuốc nhân dân (Archiatri popularis) được thượng viện bổ nhiệm, bắt buộc thầy thuốc phải hành nghề nhân đạo, chữa bệnh không lấy tiền đối với người nghèo, Có quyền được nhận tiền thưởng của người bệnh (Khi họ bình phục) nhưng nghiêm cấm hối lộ, mặc cả, nếu phát hiện sẽ bị tước quyền.
Senaka nói lên sự đánh giá của xã hội đối với thầy thuốc: “Thầy thuốc là bạn của ta chứ không phải là người làm thuê” vì sự cống hiến to lớn của thầy thuốc “chúng ta trả cho thầy thuốc tiền công? không đủ đâu, vì họ cống hiến cho chúng ta, không chỉ lao động của họ mà cả trái tim của họ nữa. Họ đáng được trọng vọng và yêu mến” [25]
Galien (131-201) là thầy thuốc vĩ đại đã có đóng góp vào lĩnh vực y đức; ý nghĩa đạo đức của Galien được thể hiện: Có hướng y học dự phòng và thể dục chữa bệnh. Ông có xu hướng chú ý chữa bệnh và chữa cả người mắc bệnh, yêu
cầu người thầy thuốc phải có lòng nhân đạo, thương người, tế nhị, khôn ngoan, mềm dẻo,... không được kích động bệnh nhân, giữ được phẩm cách của mình. Ông chỉ trích mạnh mẽ thầy thuốc chỉ quan tâm người bệnh giàu sang quyền thế, dương dương tự đắc khi cùng đi với họ ngoài đường, cùng dự những cuộc hành lạc và cùng làm bộ làm tịch như thằng điên [34]
Avicènne (980-1037) là nhà khoa học, nhà triết học, nhà thơ, một danh y nổi tiếng đã có nhiều công trình y học và đạo đức y học (người biên soạn y điển “Canon of medecine” 5 tập; “quy tắc khoa học y học”; “đạo đức”, ...). - Là người có đức độ, có lòng nhân đạo và nhạy cảm trước người bệnh, luôn tự tin kiến thức mình sẽ giúp cho người đời bớt đau khổ. - Tiêu chuẩn người thầy thuốc được thể hiện: Thầy thuốc phải có: Mắt của chim đại bàng Bàn tay của người con gái Trí khôn của con rắn Trái tim của con sư tử - Biết mình lâm bệnh và sẽ chết, Avicènme đã bán cả gia tài của mình phân phát cho người nghèo, đọc thánh kinh Coran cho đến khi chết. - Lần đầu tiên môn đạo đức y học được giảng dạy ở đại học Salerne (TK 9 - TK 13). Cùng với tập thể các thầy thuốc, giáo sư Arnold đã soạn và viết bộ luật “Salerne về sức khỏe”.[25]
Tại đại hội của Liên Đoàn các thầy thuốc thế giới năm 1948 đã ra bản tuyên ngôn (gọi là bản tuyên ngôn Geneve) gồm những điều căn bản sau đây: "Tôi tự đảm nhận lấy trách nhiệm trọng thể là cống hiến cả cuộc đời mình để phục vụ nhân loại. Tôi sẽ giữ lòng kính trọng và biết ơn các bậc thầy dạy, tôi sẽ hành nghề với lương tâm và phẩm giá,sức khoẻ của bệnh nhân sẽ là mối quan tâm đầu tiên của chúng tôi, tôi sẽ tôn trọng những điều bí mật mà nóđược giao phó cho tôi, tôi sẽ bằng mọi cách trong khả năng của mình, bảo vệ danh dự và truyền thống cao quý của nghề Y, những đồng nghiệp của tôi sẽ là anh em của tôi, tôi sẽ không được phép tính đến vấn đến vấn đề tôn giáo, dân tộc, chủng tộc, đảng phái chính trị, địa vị xã hội, xen vào giữa nhiệm vụ của tôi và bệnh nhân của tôi. Bằng sự tôn trọng tối đa, tôi sẽ bảo vệ tính mệnh con người từ hãy còn trứng nước, ngay cả dưới sự đe doạ, tôi cũng không dùng kiến thức y học của
mình trái ngược với luật lệ của lòng nhân đạo. Tôi thực hiện những điều hứa hẹn ấy một cách trọng thể, tự do, và với danh dự của tôi". Đây là "Y nghĩa vụ luận" thứ hai. [25]
Thomas Sydenhan (thế kỷ XVII) cho rằng "Thầy thuốc là công bộc của lòng từ thiện thiêng liêng". Đầu thế kỷ XIX những vấn đề về đạo đức y học đã được nghiên cứu trong các bài giảng của các giáo sư lâm sàng hệ Y khoa Trường Đại học Tổng hợp Mát-xcơ-va. Nhà nội khoa lâm sàng lớn nhất ở nửa đầu thế kỷ XIX, M.Ia. Mucdrop giảng dạy rằng: "Thầy thuốc phải khiêm tốn và thận trọng, đối với bệnh nhân phải thương yêu", ông đã nhiều lần nói rằng "Trong nghệ thuật Y học không thể có những thầy thuốc làm xong công tác khoa học". Trong các giáo sư hệ Y khoa đã nêu ra vấn đề đạo đức y học, có
E.O Mukhin, người được bệnh nhân yêu quý nhất. Lời tựa của ông viết trong một chương cuốn khái niệm về giải phẫu học, để tặng SV, đã kết thúc bằng những lời nổi tiếng sau đây: "Vì lợi ích, danh dự, vinh quang của tổ quốc, các bạn luôn luôn là những tấm gương lớn nhất" [25]
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Trong sự phát triển của y học thế giới, đạo đức người thầy thuốc (y đức) luôn được coi là một phần quan trọng của khoa y học, có ảnh hưởng lớn đến tính hiệu quả trong hoạt động nghề nghiệp của thầy thuốc. Ở Việt Nam, đạo đức người thầy thuốc mang đậm dấu ấn của đạo đức truyền thống phương Đông, thể hiện khá rõ nét qua tư tưởng của những đại danh y nổi tiếng. Chẳng hạn, cụ Chu Văn An (1292-1370) có nói “Chữ nhân là mấu chốt của người thầy thuốc rồi mới đến chữ minh, chữ tài”. Nghĩa là người thầy thuốc phải lấy lòng nhân đức lên làm đầu rồi mới đến sự thông minh, khôn khéo, tài năng sử lý bệnh tật.
Danh y Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV), đã đưa ra lời di huấn: “Cõi trời Nam gấm vóc
Nước sông Hồng chảy dài Vườn hạnh phúc nghĩa nhân
Gió mùa xuân áp rộng Thương nhân dân chết chóc
Chọn hiền triết phương thang” [8]
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII) đã dứt chí công danh để gửi trọn đời mình cho nghề làm thuốc chữa bệnh cứu người. Suốt 40 năm trời hành nghề, ông đã để lại một di sản lớn về y học dân tộc và những bài học thấm thía về đạo làm thuốc chữa bệnh của người thầy thuốc. Cho đến nay, những bài học ấy của Hải Thượng Lãn Ông vẫn còn nguyên giá trị: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người và vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi kể công, tuy không có sự báo ứng ngay nhưng để lại ân đức về sau”. [8]
Thời hiện đại, ngay từ những năm đầu xây dựng đất nước, trên cương vị người lãnh đạo cao nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt tới sự phát triển của nền y tế nước nhà, nhất là trong vấn đề y đức. Kế thừa truyền thống đạo đức y học của dân tộc và những giá trị đạo đức của nền y học thế giới, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm cụ thể về y đức của người thầy thuốc Việt Nam, được ngành y tế coi là phương châm chỉ đạo cho sự phát triển nền y tế nước nhà. Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức bao gồm hai nội dung cơ bản:
Thứ nhất: Người thầy thuốc phải có lương tâm và trách nhiệm đối với người bệnh. Ngay trong những năm đầu xây dựng đất nước, trong thư gửi Hội nghị Quân y, tháng 3-1948, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu… Khi gặp những ca anh em thương binh thiếu trấn tĩnh, người thầy thuốc nên lấy lòng nhân loại và tình thân ái mà cảm hóa họ. Người ta có câu “Lương y kiêm từ mẫu”, nghĩa là một người thầy thuốc đồng thời phải là một người mẹ hiền”.[8]
Trong bức thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế toàn quốc, tháng 6 - 1953, Người đưa ra quan niệm cho rằng, việc phòng bệnh cũng cần thiết như việc trị bệnh, để làm tròn nhiệm vụ ấy, người thầy thuốc cần phải thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt; cần phải tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân; lương y phải kiêm từ mẫu. Cũng trong bức thư này, Người đặt ra yêu cầu chuyên môn và chính trị đối với đội ngũ thầy thuốc. Cụ thể là “về chuyên môn: cần luôn luôn học tập, nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ. Về chính trị: cần trau dồi tư tưởng và đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ: yêu nước, yêu dân, yêu nghề, đoàn kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác”. [8]
Tại hội nghị cán bộ Y tế ngày 27 - 2 - 1955, Hồ Chí Minh đã gửi thư “góp vài ý kiến” để các đại biểu thảo luận. Bức thư này thể hiện một cách khá toàn diện và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về y tế. Vấn đề y đức, một lần nữa, tiếp tục được Người nhấn mạnh với nội dung: cán bộ y tế phải thương yêu người bệnh: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô các chú. Chính phủ phó thác cho các cô các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn như mình đau đớn. [8]
Thứ 2: Thầy thuốc phải xây dựng tình đoàn kết với đồng nghiệp Hồ Chí Minh coi thật thà đoàn kết là nội dung đạo đức lớn có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là đối với ngành y: “Trước hết, phải thật thà đoànkết, đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh em giúp việc. Dù công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, góp sức mình trong việc phục vụ nhân dân”. Đối với y đức, Hồ Chí Minh coi thật thà đoàn kết là nội dung quan trọng hàng đầu. Tư tưởng ấy của