MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đạo đức (GDĐĐ) là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cũng như tạo nên giá trị mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, rất coi trọng giáo dục đạo đức, Người cho rằng: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng” và coi giá trị mỗi con người gồm hai mặt: Đức và Tài. Người chỉ rõ: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng”, “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân"[16].
Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII đã khẳng định: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Nghị quyết còn nêu rõ: “Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện, không chỉ phát triển về trí tuệ, trong sáng về đạo đức, lối sống mà còn phải là con người cường tráng về thể chất” [7].
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX tiếp tục khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững [8].
Điều 2 Luật giáo dục năm 2005 đã khẳng định mục tiêu giáo dục “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và phát triển nhân cách, phẩm chất và
năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [18].
Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào về phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa – giáo dục. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế mới cũng ảnh hưởng tiêu cực đến công tác giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức lối sống và những giá trị nhân văn là vấn đề toàn xã hội quan tâm. Đánh giá thực trạng này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII nhấn mạnh “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước”[7].
Học sinh trung học phổ thông (THPT) đang trong độ tuổi phát triển, lứa tuổi dễ bị tác động bởi những điều mới lạ và bị ảnh hưởng lôi kéo của nhóm bạn nên rất cần có định hướng GDĐĐ. Bước vào thế kỷ 21, nhân loại cũng như dân tộc đứng trước cơ hội vô cùng lớn, đó là sự phát triển khoa học công nghệ, mở cửa, hội nhập toàn cầu hoá... nhưng cũng đối mặt với những thách thức chưa từng có của môi trường tự nhiên và xã hội như những tệ nạn xã hội, hệ thống giá trị, lối sống có nhiều thay đổi... Đó là những hiện tượng rất phức tạp ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nhân cách học sinh THPT vì vậy GDĐĐ lại càng trở nên cấp thiết.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh ở trường trung học phổ thông Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh - 1
- Sơ Đồ Mô Hình Quản Lý Nhà Trường Theo Mục Tiêu Giáo Dục
- Lý Luận Về Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Thpt
- Chỉ Đạo Thực Hiện Kế Hoạch Gdđđ Cho Học Sinh
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Hiện nay, sự xuất hiện của xã hội thông tin, sự phát triển của nền kinh tế; xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế... lôi kéo các gia đình vào vòng quay kinh tế nên thời gian để các bậc phụ huynh học sinh quan tâm, chăm sóc giáo dục con cái không nhiều, làm cho trẻ em thấy cô đơn ngay trong nhà của mình và vì vậy các em dễ phát triển lệch lạc. Thực tế cho thấy xã hội, gia đình và ngay cả một bộ phận cán bộ quản lý và giáo viên vẫn coi nhẹ việc GDĐĐ cho học sinh, chủ yếu vẫn coi việc dạy chữ hơn việc dạy người.
Trong những năm qua do đặc thù địa phương, nhiều gia đình tại xã
Quan Lạn đi làm nghề dài ngày trên biển, cha mẹ mải làm ăn, lo kiếm tiền, không có điều kiện chăm lo đến sự học hành, đời sống của con trẻ. Và đặc biệt kể từ khi Vân Đồn được phê duyệt đặc khu kinh tế, xã Quan Lạn có điện lưới quốc gia thì hàng loạt các nhà nghỉ, hàng quán mọc lên với với đủ loại các trò chơi từ đánh xèng, bi a, games, chát…. Số thanh niên đã ra trường không có việc làm thường xuyên tụ tập, lôi kéo học sinh bỏ học tham gia hút thuốc, uống rượu, ma tuý, trộm cắp, cắm quán, đánh nhau và nhiều tệ nạn khác, làm cho số học sinh vi phạm đạo đức, nền nếp của nhà trường ngày càng tăng... Trước thực trạng trên, hơn ai hết, là người làm công tác quản lý một trường THPT của huyện Vân Đồn, tôi nhận thức rõ trách nhiệm của mình, phải có biện pháp quản lý giáo dục đạo đức thiết thực, phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giáo dục đạo đức học sinh. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh ở trường trung học phổ thông Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá thực trạng đạo đức học sinh và thực trạng quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh trên địa bàn, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh tại trường THPT Quan Lạn, huyện Vân Đồn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động GDĐĐ học sinh trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh ở trường THPT Quan Lạn, Vân Đồn, Quảng Ninh
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh ở trường trung học phổ thông.
4.2. Khảo sát, đánh giá, phân tích thực trạng đạo đức học sinh, hoạt động GDĐĐ và quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh ở trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh.
4.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh ở trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay.
5. Câu hỏi nghiên cứu
1. Thực trạng quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh hiện nay như thế nào?
2. Có những biện pháp nào nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh trường THPT Quan Lạn trong giai đoạn hiện nay?
6. Giả thuyết nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập, hiệu quả thấp, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường THPT. Nếu nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận, đánh giá đúng thực trạng quản lý sẽ đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh có tính cấp thiết và khả thi góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường.
7. Phạm vi nghiên cứu
7.1. Phạm vi không gian nghiên cứu
Nghiên cứu tại trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh
7.2. Phạm vi thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu từ tháng 01/2016 đến tháng 11 năm 2016
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa nhằm hệ thống hóa tổng quan vấn đề nghiên cứu, cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, nghiên cứu văn kiện của Đảng, Nhà nước, các tài liệu lý luận về GDĐĐ và biện pháp quản lý giáo dục đạo đức học sinh THPT.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: sử dụng bảng hỏi Anket điều tra thực trạng vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn, lấy ý kiến của các cán bộ quản lý, giáo viên, GVCN, cha mẹ học sinh, ... nhằm làm rõ một số nội dung về thực trạng vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát: quan sát các hoạt động GDĐĐ, quản lý hoạt động GDĐĐ của trường THPT Quan Lạn, quan sát các biểu hiện vi phạm, chấp hành nề nếp của học sinh trong nhà trường.
8.3. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Xử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm thống kê kết quả nghiên cứu
- Phân tích, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0
9. Những đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận, góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về quản lý giáo dục đức học sinh ở trường THPT.
Luận văn nghiên cứu thực trạng, đề xuất biện pháp quản lý giúp cho trường THPT Quan Lạn nâng cao hoạt động GDĐĐ học sinh, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo quý giá trong công tác đào tạo chuyên ngành QLGD tại trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được cấu trúc trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh ở trường trung học phổ thông.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trường THPT Quan Lạn, huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Từ xưa đến nay, trong mọi thời đại, đạo đức có vai trò quan trọng trong xã hội với những chuẩn mực giá trị đúng đắn, đạo đức là một bộ phận quan trọng trong nền tảng tinh thần của xã hội, đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, nếu xã hội bị khủng hoảng về đạo đức, điều đó chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội. Do đó vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức luôn được nhiều người quan tâm.
Khổng Tử (551-479 TCN), nhà giáo dục lớn của Trung Hoa phong kiến đề cao đường lối đức trị và lễ trị để trị quốc an dân, phát triển đất nước. Theo quan điểm của ông thì cơ sở của đường lối đức trị là lòng Nhân, lòng yêu thương con người, ông coi Nhân là gốc rễ của các đức khác, các đức tụ cả ở Nhân. Khổng Tử cho rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Làm người phải biết sửa mình “Không nhìn cái không hợp Lễ, không nghe cái không hợp Lễ, không nói điều không hợp Lễ, không làm việc không hợp Lễ”. Với những cống hiến ấy, Khổng Tử được coi là nhà giáo dục lớn của Trung Quốc, được tôn làm “Vạn thế sư biểu” [Trích: 10].
I.A.Komenxki (1592-1670) đã đúc kết “Một số qui tắc trong ứng xử” để giáo dục cho thanh thiếu niên. Ông đặc biệt quan tâm đến phương pháp làm gương và nêu gương trong giáo dục đạo đức cho học sinh[Trích: 10].
Ở thế kỷ XX, nhiều nhà tâm lý học và giáo dục học trên thế giới cũng đã đề cập và nghiên cứu về giáo dục đạo đức. Trong số đó nối bật là nhà giáo dục học và tâm lý học Liên Xô A.X. Makarenco, ông nêu lên nguyên tắc giáo dục tập thể và thông qua tập thể. Trong tác phẩm “Bài ca sư phạm’’ ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của GDĐĐ học sinh [14].
Ỏ Việt Nam cũng như các nước phương Đông khác, hàng nghìn năm trước đây đã xây dựng mô hình giáo dục theo truyền thống Nho giáo, coi trọng Lễ và Văn. Văn hiểu theo nghĩa rộng là kiến thức là văn chương cũng có nghĩa là tài năng. Lễ được hiểu theo nghĩa rộng là nghi thức, khuôn phép mà mọi người phải tuân theo trong hành vi ứng xử để thể hiện là con người có những phẩm chất cơ bản: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín có nghĩa là đạo đức. Đạo đức và tài năng là hai yếu tố căn bản của nhân cách con người, trong đó cha ông ta coi trọng đạo đức, coi đạo đức là gốc rễ, “Tiên học Lễ, Hậu học Văn” là xuất phát từ tư tưởng đó.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng về giáo dục của các bậc tiền nhân, chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao tầm quan trọng của đạo đức. Bác viết: “Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [19, tr.34]. Theo tư tưởng của Người, đạo đức cách mạng giúp con người vượt mọi thử thách, không lùi bước trước khó khăn gian khổ. Bản thân Người chính là tấm gương sáng nhất về đạo đức cách mạng. Do đó cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động được đông đảo nhân dân ta hưởng ứng tham gia.
Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được vai trò của GDĐĐ đối với sự nghiệp giáo dục nói riêng và sự phát triển bền vững của toàn xã hội nói chung. Chính vì vậy, năm 1979 khi Bộ chính trị ra quyết định về cải cách giáo dục, Uỷ ban cải cách giáo dục đã có quyết định số 01 mở cuộc vận động: "Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong các trường học" [Trích: 20].
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế mở đầy năng động hiện nay đã tạo ra những định hướng giá trị xã hội mới, bên cạnh những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, những giá trị của con người trong thời đại mới cũng được hình thành. Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu của các tác giả về đạo đức và GDĐĐ học sinh:
Tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu lên các định hướng giá trị đạo đức con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước và nêu lên 6 giải pháp cơ bản để giáo dục đạo đức con người Việt Nam trong thời kỳ CNH-HĐH: “ Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo dục đạo đức trong các trường học; củng cố ý tưởng giáo dục ở gia đình và cộng đồng, kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, kết hợp chặt chẽ giáo dục đạo đức với việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của các cơ quan thi hành pháp luật. Tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết là cán bộ đảng viên, thầy cô giáo các trường học, xây dựng một cơ chế tổ chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã hội về giáo dục đạo đức, nâng cao nhận thức cho mọi người” [12, tr.71-72].
Tác giả Hà Nhật Thăng đã nghiên cứu sự phát triển trí lực - tâm lực - thể lực của mỗi con người, trong đó phải coi tâm lực là nội lực của sự phát triển con người, đồng thời tác giả đã viết cuốn sách: " Rèn luyện kỹ năng sư phạm” nhằm cung cấp những kỹ năng sư phạm cần thiết cho sinh viên sư phạm và đội ngũ giáo viên để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong các nhà trường phổ thông [23].
Các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Đinh Thị Kim Thoa - Trần Văn Tính
- Vũ Phương Liên đã nghiên cứu giáo dục giá trị sống nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh THPT, đồng thời các tác giả đã viết cuốn sách “Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông”, đây là tài liệu bổ ích cho đội ngũ giáo viên THPT trong việc giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh hiện nay và đã được rất nhiều trường THPT sử dụng [15].
Nghiên cứu về quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh, có một số tác giả nghiên cứu như sau:
Tác giả Nguyễn Quang Vinh đã đề cập đến các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đức học sinh THPT huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình và đề xuất 6 giải pháp quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục đức học sinh THPT [27].