Cơ Sở Lý Luận Về Quản Lí Hoạt Động Bồi Dưỡng Thường Xuyên Cho Giáo Viên


Sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi dành cho 5 hiệu trưởng, 10 phó hiệu trưởng, 25 tổ trưởng chuyên môn và 75 giáo viên, nhằm làm rõ thực trạng hoạt động BDTX cho GV và QL hoạt động BDTX cho GV tại các trường THPT huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ngoài ra, phương pháp này còn sử dụng để khảo sát ý kiến về tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp được đề xuất.

7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu

Phương pháp phỏng vấn sâu tiến hành với 5 CBQL nhà trường, 5 TTCM và 5 GV nhằm làm rõ hơn thông tin thu nhận từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

7.2.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

Nghiên cứu các hồ sơ, văn bản liên quan đến quản lí hoạt động BDTX cho GV tại 5 trường THPT huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long nhằm làm rõ hơn thông tin thu nhận từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phương pháp phỏng vấn sâu.

7.2.3. Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phần mềm SPSS để xử lí các số liệu thu được từ quá trình khảo sát nhằm làm rõ thực trạng.

8. Đóng góp mới của luận văn

8.1. Về lí luận

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Luận văn hệ thống hóa lí luận về hoạt động BDTX và quản lí hoạt động BDTX tại trường THPT.

8.2. Về thực tiễn

Quản lý hoạt động bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên tại các trường trung học phổ thông huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long - 3

Luận văn mô tả sát thực, cụ thể, toàn diện thực trạng quản lí hoạt động BDTX cho GV tại các trường THPT Huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

Luận văn đề xuất được một số biện pháp quản lí hoạt động BDTX cho GV tại các trường THPT Huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

9. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận về QL hoạt động BDTX cho GV tại trường THPT. Chương 2: Thực trạng QL hoạt động BDTX cho GV tại các trường THPT

Huyện Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long.


Chương 3: Biện pháp QL hoạt động BDTX cho GV tại các trường THPT Huyện Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long.


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CHO GIÁO VIÊN‌

TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề‌

Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và bồi dưỡng thường xuyên GV đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, cả ở nước ngoài và ở trong nước.

1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài

Ở nhiều quốc gia trên thế giới, công tác bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên rất được quan tâm thực hiện và được xem là hoạt động bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bắt buộc đối với giáo viên:

Ở Pháp, một quốc gia có nền giáo dục rất phát triển ở Châu Âu, đã xây dựng 49 nguyên tắc mới cho giáo dục. Trong đó có đề cập đến công tác đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên GV: mỗi GV được hưởng ít nhất 35 giờ đối với công tác đào tạo tiếp tục hàng năm và thời gian làm việc của GV giảm từ 18 giờ xuống 15 giờ/tuần, thay vào đó GV phải có 4 giờ/tuần có mặt trong nhà trường để nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị cho các hoạt động giảng dạy và tham gia làm việc theo nhóm để chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy lẫn nhau (Trích lại từ Hà Sĩ Hồ & Lê Tuấn, 1995).

Ở Anh có chương trình cố vấn cho GV mới vào nghề (montering for beginning teachers) chương trình này cũng được xem như là một hình thức BDTX cho GV (Andrew J. Hobson, 2009).

Tiếp tục phát triển nghề nghiệp cho GV sau tuyển dụng (Continuous professional development) là một mô hình BDTX khác cũng được các nước Châu Âu thực hiện để nâng cao chất lượng GV (Peter Lee, 2014).

Còn ở Nhật Bản, quốc gia phát triển vào bậc nhất của Châu Á cũng đặc biệt chú trọng tới công tác bồi dưỡng phát triển đội ngũ GV. Theo luật Giáo dục Nhật Bản quy định: Để trở thành GV phổ thông phải có chứng chỉ sư phạm và ở quốc gia này cũng đưa ra quy chế bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với GV phổ thông mới vào nghề với thời lượng là 300 giờ cho năm thứ nhất, 30 buổi trong năm thứ 10. GV đương nhiệm được bồi dưỡng bằng nhiều hình thức, ở nhiều cấp với phương thức đổi mới, đa dạng. (Trích lại từ Mạc Thị Việt Hà, 2008)


Đối với Trung Quốc sau mỗi chu kỳ 5 năm GV phải tham gia khóa BD nghiệp vụ trong 240 giờ; Còn ở Hàn Quốc thì 182 giờ trong năm thứ năm và ở Đài Loan thì bắt buộc là 90 giờ mỗi chu kỳ 3 năm GV phải tham gia đào tạo BD chuyên môn nghiệp vụ (Issues Concerning Teacher Education in the East Asian Region, Asia-Pacific Journal of Teacher Education&Development, 2003).

Nhìn chung, giống như các ngành nghề khác, nghề giáo cũng phải được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tu nghiệp hay đào tạo lại sau một thời gian làm việc để được bổ sung, cập nhật kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng kịp sự tiến bộ và thay đổi nhanh hiện nay của thế giới, đặt biệt là thay đổi không ngừng của thời đại công nghệ mới.

1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Với quan điểm giáo viên là một trong những nhân tố quyết định chất lượng giáo dục của nhà trường và nhiệm vụ BDTX cho giáo viên được ưu tiên thực hiện. Cụ thể, việc thực hiện BDTX cho GV hàng năm được thể chế hóa tại Thông tư số 30/2011/TT-BGDĐT về ban hành Chương trình BDTX cho GV trung học phổ thông và Thông tư số 26/2012/TT-BGDĐT quy định Quy chế bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên (sau đây gọi tắt là Thông tư 26). Trong đó nhấn mạnh, công tác BDTX cho GV nhằm đạt mục tiêu “GV học tập BDTX để cập nhật kiến thức chính trị, kinh tế - xã hội, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, phát triển năng lực dạy học, năng lực GD và những năng lực khác theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp GV, yêu cầu nhiệm vụ năm học, cấp học, yêu cầu phát triển GD của địa phương, yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng GD. Phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng của GV; năng lực tự đánh giá hiệu quả BDTX; năng lực tổ chức, quản lí hoạt động tự học, tự bồi dưỡng GV của nhà trường, của phòng GD&ĐT và của sở GD&DDT” (Bộ GD & ĐT, 2012) (trích mục tiêu của TT 26). Để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ BDTX cho GV đạt hiệu quả, trong những năm qua có rất nhiều hội thảo khoa học và nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới công tác BDTX cho GV và quản lí BDTX cho GV. Cụ thể có thể kể đến đó là :


Hội thảo khoa học cấp quốc gia về “Đào tạo bồi dưỡng GV tại các trường Đại học đa ngành đáp ứng yêu cầu đổi mới GD hiện nay” do Trường ĐH thủ đô Hà Nội thực hiện tháng 5 năm 2016, trong đó PGS.TS Phan Thu Hằng có bài “Đổi mới công tác BDTX giải pháp - nâng cao chất lượng đội ngũ GV THPT hiện nay” - bài viết đã đề xuất nhiều giải pháp về BDTX cho GV THPT.

Hội thảo “Hoạt động bồi dưỡng GV và CBQL giáo dục khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long” do trường Đại học Đồng Tháp chủ trì vào tháng 01 năm 2017, trong đó hội thảo đưa ra được nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng GV đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện GD.

Hội thảo “Công tác QL trường THPT đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình GD phổ thông khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long” do trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh liên kết với Sở GD Vĩnh Long thực hiện tháng 3 năm 2018 - trong hội thảo đã đặt ra nhiều vấn đề và đề ra được nhiều giải pháp về phát triển, đào tạo đội ngũ giáo viên, cán bộ QL chuẩn bị tốt cho thực hiện đổi mới chương trình GD phổ thông của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long trong thời gian tới. Đặc biệt, trong kỉ yếu hội thảo có bài viết trao đổi về Kinh nghiệm quốc tế về công tác BDTX đối với CBQL trường học của TS. Phạm Bích Thủy, thông qua bài viết của tác giả, người nghiên cứu thấy rõ hơn được sự khác biệt và những tương đồng về công tác BDTX cho CBQL và công tác BDTX cho GV THPT.

Về các công trình nghiên cứu, có nhiều đề tài đề cập đến công tác BDTX và quản lí công tác BDTX cho GV ở nhiều bậc học, tiêu biểu như:

Đề tài “Biện pháp QL công tác BDTX cho GV các trường THPT tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Ngô Anh Hải thực hiện năm 2012; Luận văn năm 2014, của Vũ Hồng Quân đã nghiên cứu một cách sâu hơn về “Biện pháp quản lí hoạt động bồi dưỡng thường xuyên giáo viên THCS của Phòng GD&ĐT huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình”. Cả hai đề tài này đã khái quát chi tiết về thực trạng của công tác BDTX cho GV thông qua đánh giá về nội dung, phương pháp, hình thức BDTX cho GV và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lí hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV phù hợp với đặc trưng điều kiện kinh tế - xã hội từng vùng, miền trên địa bàn từng tỉnh, thành phố và giai đoạn triển khai.


Trên các tạp chí chuyên ngành có khá nhiều bài viết về vấn đề BDTX cho GV như bài “Bồi dưỡng thường xuyên mới là yếu tố quyết định chất lượng giáo viên” của GS Đinh Quang Báo (2018). Tác giả Vũ Duy Tín (2013) với bài viết “Cần đổi mới công tác bồi dưỡng thường xuyên” và bài viết của tác giả Nhật Duy (2014) về “Công tác bồi dưỡng thường xuyên và những điều bất cập” đăng trên báo Giáo dục và thời đại

Như vậy, nghiên cứu về đổi mới đào tạo, bồi dưỡng và BDTX cho GV đã có khá nhiều công trình đi sâu nghiên cứu, các đề tài này được triển khai ở nhiều bình diện khác nhau, đặc biệt được quan tâm trên bình diện QL giáo dục. Nhưng riêng về lĩnh vực quản lí hoạt động BDTX cho GV tại các trường THPT, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long thì chưa có công trình nào đề cập tới. Đây là một vấn đề mà người nghiên cứu lựa chọn để thực hiện trong bối cảnh hiện tại.

1.2. Các khái niệm cơ bản‌

1.2.1. Khái niệm hoạt động bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên tại trường trung học phổ thông

* Bồi dưỡng

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam xuất bản năm 2006 thì “bồi dưỡng là làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”.

Hiện nay, trong nhiều bài báo khoa học về lĩnh vực giáo dục trên thế giới, nhiều tác giả có đề cập đến thuật ngữ “fostering”, theo từ điển Anh - Anh của Oxford thì “fostering - foster something to encourage something to develop”, có thể dùng từ tương đồng trong tiếng Anh là “promote” người nghiên cứu tạm dịch là “nuôi dưỡng thúc đẩy một cái gì đó để nó phát triển”

Theo cách giải thích từ ngữ của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thì “bồi dưỡng là hoạt động trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức”. Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động theo chương trình quy định cho ngạch công chức. Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao.


Tác giả Nguyễn Minh Đường quan niệm: “Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật những kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường xác nhận bằng một chứng chỉ” (Trích lại từ Hồ Văn Liên, 2009).

Vậy, có thể hiểu bồi dưỡng là quá trình bổ sung kiến thức còn thiếu, cập nhật và làm giàu thêm tri thức mới, nhằm thúc đẩy mỗi cá nhân hoàn thiện và phát triển nghề nghiệp của bản thân đáp ứng được nhu cầu của xã hội hiện đại.

* Bồi dưỡng giáo viên

Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, “Bồi dưỡng GV là việc nâng cao, hoàn thiện trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho các GV đang dạy học”; bên cạnh đó, “bồi dưỡng GV là sự tiếp tục phát huy năng lực tự học, tự đào tạo đã được tạo ra ở quá trình đào tạo ban đầu theo hình thức bồi dưỡng từ xa, theo định hướng tự đào tạo để dạy HS tự học” (Trần Bá Hoành, 2002).

Trong bài quản lí nhân sự trong giáo dục - đào tạo, tác giả Mạc Văn Trang có nêu: “Bồi dưỡng GV là nâng cao trình độ về kiến thức và kỹ năng của GV lên một bước mới” (Trích lại từ Hồ Văn Liên, 2009).

Bồi dưỡng GV là bổ sung những kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, cập nhật thêm những tri thức mới về các lĩnh vực của khoa học giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ GV, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp trồng người. Như vậy, bồi dưỡng GV là quá trình bổ sung kiến thức, kỹ năng để nâng cao trình độ trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn nhất định, giúp GV có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy ở cấp THPT. Là quá trình làm tăng thêm trình độ hiện có của GV về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ theo chuẩn nghề nghiệp hiện tại của giáo viên THPT. Trên thế giới bồi dưỡng GV được xem là việc đào tạo lại (retraining), đổi mới, cập nhật kiến thức kỹ năng nghề nghiệp. Ở nước ta bồi dưỡng GV cũng được xem như là đào tạo tiếp nối đào tạo ban đầu, đào tạo trong khi đang làm việc (continuous professional development).

* Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên

Đối với nghề giáo là một nghề đặc thù, mỗi GV ngoài việc đã được trang bị


kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp trong quá trình đào tạo, thì trong thực tế giảng dạy đòi hỏi người thầy phải thường xuyên liên tục tự bồi dưỡng năng lực giảng dạy và kiến thức chuyên môn. Việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng sẽ giúp hoàn thiện quá trình đào tạo, làm giàu tri thức, kinh nghiệm của mỗi bản thân GV, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và chất lượng giáo dục chung của nhà trường.

Theo tác giả Phạm Thúy Hà thì “BDTX cho GV là quá trình nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp cho giáo viên một cách thường xuyên để giúp họ cập nhật, trang bị thêm, trang bị mới những kiến thức, kĩ năng, thái độ làm tăng thêm năng lực, phẩm chất cho GV đáp ứng yêu cầu dạy học.” (Phạm Thúy Hà, 2015)

Khái niệm này là khái niệm được luận văn lựa chọn.

* Hoạt động bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên

BDTX cho GV là quá trình tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cho GV sau khi được tuyển dụng, việc đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện hàng năm nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp cho giáo viên một cách thường xuyên để giúp họ cập nhật, trang bị thêm, trang bị mới những kiến thức, kĩ năng, thái độ làm tăng thêm năng lực, phẩm chất cho GV đáp ứng yêu cầu dạy học. Hoạt động BDTX cho GV là yêu cầu cấp thiết để nâng cao trình độ về mọi mặt cho GV. Công tác này vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV bậc THPT góp phần thiết thực trong việc nâng cao chất lượng dạy-học, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Hoạt động BDTX cho GV không chỉ là nhiệm vụ của cơ quan QLGD các cấp, của các cơ sở giáo dục mà còn là nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi GV.

Như vậy, hoạt động BDTX cho GV là hoạt động bồi dưỡng GV và tự bồi dưỡng của GV trong suốt năm học, giúp giáo viên cập nhật kiến thức, BD phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, phát triển năng lực dạy học, năng lực GD và những năng lực khác theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp GV, yêu cầu nhiệm vụ năm học, cấp học, yêu cầu phát triển GD của địa phương, yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng GD.

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 08/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí