Vai Trò Của Tài Nguyên Du Lịch Đối Với Sự Phát Triển Du Lịch


cảm nhận được ý nghĩa của từng công trình và tăng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc trong mỗi người.

Du lịch có tác dụng nâng cao dân trí. Sau mỗi chuyến đi du lịch, thường để lại cho du khách một số kinh nghiệm, tăng thêm hiểu biết và vốn sống. Hiểu biết thêm về lịch sử, khám phá mới về địa lý, có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống, mở mang kiến thức văn hóa chung…là kết quả thu được sau mỗi chuyến đi du lịch. Ngoài ra phát triển du lịch còn là động cơ giúp con người trao dồi, bổ sung các kiến thức cần thiết như ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử văn hóa…

Du lịch góp phần cho việc phục hồi và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc. Nhu cầu về nâng cao nhận thức văn hóa trong chuyến đi của du khách thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý, yểm trợ cho việc khôi phục, duy trì các di tích, lễ hội, sản phẩm làng nghề…

Nhờ có du lịch, cuộc sống cộng đồng trở nên sôi động hơn, các nền văn hóa có điều kiện hòa nhập và giao thoa với nhau, làm cho đời sống văn hóa tinh thần của con người ở khắp nơi trở nên phong phú hơn.

Trong thời đại hiện nay, công việc làm ăn là một trong những vấn đề vướng mắc nhất của các quốc gia. Phát triển du lịch được coi là một giải pháp lý tưởng góp phần giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp và nâng cao mức sống cho người dân.

1.1.2.2. Chức năng kinh tế‌

Du lịch có ảnh hưởng rõ nét đến nền kinh tế của từng địa phương, quốc gia và thế giới thông qua việc tiêu dùng và hưởng thụ của du khách.

Du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu về tiêu dùng hàng hóa vật chất vô hình và hữu hình. Khi đi du lịch, du khách cần được ăn uống, cung cấp các phương tiện vận chuyển, lưu trú, thư giản, giải trí…ngoài ra nhu cầu mở rộng kiến thức, quá trình cung ứng các sản phẩm và thái độ của những người phục vụ du lịch rất được du khách quan tâm đó là nhu cầu về dịch vụ.

Các hoạt động du lịch thường liên quan đến không gian ngoài trời, tức là sẽ phụ thuộc khá nhiều vào thời tiết. Do vậy việc tiêu dùng du lịch cũng mang tính thời vụ rõ nét. Điều này không chỉ đúng với việc đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng các

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 158 trang tài liệu này.


sản phẩm du lịch trên cơ sở khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên mà còn đối với cả tài nguyên du lịch nhân văn.

Tiềm năng và định hướng phát triển du lịch biển, đảo tại tỉnh Kiên Giang - 4

Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng du lịch và tiêu dùng hàng hóa khác là việc tiêu dùng các sản phẩm du lịch xảy ra cùng lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện quá trình tiêu thụ sản phẩm, người mua hàng (du khách) được đưa đến nơi sản xuất và tiêu dùng tại chỗ. Đây cũng chính là lý do làm cho sản phẩm du lịch có tính độc quyền và không thể so sánh với sản phẩm du lịch nơi này với sản phẩm du lịch của một nơi khác một cách tùy tiện.

Như vậy, mối quan hệ trong tiêu dùng du lịch là quan hệ vật chất nảy sinh khi khách đến mua những hàng hóa cụ thể và quan hệ phi vật chất nảy sinh khi du khách tiếp xúc với phong tục tập quán, với di sản văn hóa và với tổ hợp thiên nhiên nói chung. Ảnh hưởng kinh tế của du lịch được thể hiện thông qua tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội.

Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu chi của khu vực và đất nước. Du khách mang ngoại tệ vào đất nước du lịch, làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước đến. Ngược lại phần ngoại tệ sẽ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người đi du lịch nước ngoài. Trường hợp đầu cán cân thu chi sẽ nghiên về phía đón khách, trường hợp thứ hai nhà nước phải xuất một lượng ngoại tệ lớn để gởi khách đi du lịch nước ngoài. Trong phạm vi quốc gia du lịch làm xáo động hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hóa. Cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế của đất nước nhưng có tác dụng điều hòa nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trưởng kinh tế vùng sâu, vùng xa.

Khi khu vực nào đó trở thành một điểm du lịch, du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi mặt hàng hóa tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một lượng lớn vật tư, hàng hóa các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành kinh tế có liên quan, đặc


biệt là nông nghiệp và công nghiệp chế biến…Bên cạnh đó các hàng hóa vật tư cho du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn.

Điều này có nghĩa là yêu cầu sản xuất hàng hóa phải được sản xuất trên một công nghệ cao, trình độ tiên tiến. Các chủ xí nghiệp phải đổi mới trang thiết bị hiện đại, tuyển chọn và sử dụng công nhân có tay nghề cao để sản xuất các mặt hàng phục vụ nhu cầu của khách.

So với ngoại thương, nghành du lịch có nhiều ưu thế vượt trội. Du lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu nên tiết kiệm được lao động, chênh lệnh giá giữa người bán và mua không quá cao. Người tiêu dùng mua hàng với giá thấp, người sản xuất bán được giá cao nên điều này kích thích sản xuất và tiêu dùng. Do là xuất khẩu tại chỗ nên có thể xuất được những mặt hàng dễ hư hỏng mà ít bị rủi ro như hoa quả, rau tươi…nhiều mặt hàng do du lịch tiêu thụ tại chỗ nên không cần phải đóng gói hay bảo quản phức tạp.

Như vậy, du lịch có tác dụng làm thay đổi bộ mặt kinh tế khu vực, là động lực mạnh mẽ để vực dậy nền kinh tế của các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển.

Tuy nhiên, du lịch cũng có một số ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế đó là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá cả hàng hóa tăng cao. Nhiều khu vực vượt quá khả năng chi tiêu của người dân tại các địa phương du lịch, nhất là những người thu nhập thấp và không liên quan đến du lịch.

1.1.2.3. Chức năng sinh thái‌

Việc tiếp xúc, tắm mình trong thiên nhiên, được cảm nhận một cách trực giác sự hùng vĩ, trong lành, tươi mát và nên thơ của các cảnh quan tự nhiên có ý nghĩa to lớn đối với du khách. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, thấy được giá trị của thiên nhiên đối với đời sống con người. Điều này có ý nghĩa bằng cuộc sống thực tiễn phong phú, du lịch sẽ góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục môi trường, một vấn đề toàn thế giới hết sức quan tâm.

Nhu cầu nghỉ ngơi tại các khu vực có nhiều cảnh quan thiên nhiên đã kích thích việc tôn tạo, bảo vệ môi trường. Để đáp ứng nhu cầu du lịch phải dùng những


khoảng đất đai có môi trong lành ít bị xâm phạm, xây dựng công viên bao quanh thành phố, thi hành các biện pháp bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, không khí nhằm tạo nên môi trường sống phừ hợp với khách. Mặt khác, đẩy mạnh hoạt động du lịch làm tăng mức tập trung người vào vùng du lịch. Việc đó đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên. Để gia tăng thu nhập từ du khách du lịch phải có chính sách marketing, chính sách tu bổ bảo vệ tự nhiên để du lịch ngày càng hấp dẫn khách.

1.1.2.4. Chức năng chính trị‌

Du lịch là chiếc cầu nối hòa bình cho các dân tộc trên thế giới. Hoạt động du lịch giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hiểu hơn về văn hóa, thiên nhiên và con người của đất nước bạn.

Tuy nhiên không phải không có những ảnh hưởng tiêu cực của du lịch đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Du lịch là con đường mà các thế lực phản động thường hay sử dụng để tuyên truyền, kích động. Đội lốt du khách để xâm nhập vào nước đến để móc nối, xây dựng cơ sở.

Các hệ thống chính quyền của các nước trên toàn thế giới không hoàn toàn giống nhau. Những người quan tâm đến chính trị và chính quyền tìm thấy ở những cuộc đi thăm các trung tâm chính trị như là thủ đô là những động lực đánh giá mạnh mẽ sự khác nhau của chính quyền họ đến, cách giải quyết các vấn đề thủ tục hành chính, thủ tục kinh tế-xã hội để tìm hướng cho việc tạo dựng một thị trường mới.

1.2. Tài nguyên du lịch‌

1.2.1. Khái niệm tài nguyên du lịch‌

Tài nguyên du lịch là tất cả các yếu tố bao gồm: cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử-văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người (yếu tố vật thể) và các giá trị nhân văn khác (yếu tố phi vật thể) có thể được sử dụng nhằm phục vụ nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.


1.2.2. Phân loại tài nguyên du lịch‌

Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn, tài nguyên đang được khai thác và chưa được khai thác.

Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.

Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, làng nghề truyền thống, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.

Tài nguyên du lịch có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân.

Tài nguyên đang được khai thác là các tài nguyên du lịch bao gồm tự nhiên và nhân văn đang được tổ chức quản lý và khai thác kết hợp với các dịch vụ du lịch để tạo thành các sản phẩm du lịch phục vụ du khách.

Tài nguyên chưa được khai thác là các tài nguyên du lịch nhân văn và tự nhiên có khả năng khai thác để phát triển du lịch những vẫn chưa được tiến hành đưa vào khai thác.

1.2.3. Vai trò của tài nguyên du lịch đối với sự phát triển du lịch‌

Tài nguyên du lịch là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc phát triển du lịch của mỗi địa phương, mỗi vùng và quốc gia.

Tài nguyên du lịch quyết định đến quy mô, loại hình của hoạt động du lịch. Những nơi có nguồn tài nguyên du lịch nhiều và đa dạng có thể đầu tư phát triển du lịch với quy mô lớn (khu du lịch, trung tâm du lịch...) với nhiều loại hình du lịch khác nhau, tạo điều kiện liên kết du lịch. Ngược lại những địa phương có nguồn tài nguyên du lịch nhỏ và rải rác sẽ khó để đầu tư và phát triển với quy mô lớn, đầu tư cơ sở hạ tầng tốn kém, du lịch mang tính đơn điệu.

Ảnh hưởng đến cách thức hoạt động, phương thức tổ chức quản lý và khai thác của mỗi điểm du lịch, khu du lịch và vùng du lịch. Đối với mỗi loại tài nguyên


du lịch khác nhau sẽ phát triển những loại hình du lịch khác nhau. Vì vậy cách thức tổ chức hoạt động và khai thác sẽ rất khác nhau ví dụ: du lịch tự nhiên sẽ khác với du lịch nhân văn, giữa du lịch biển, đảo và du lịch miền núi, khác nhau về phương tiện di chuyển, sản phẩm du lịch...đây chính là yếu tố tạo nên sự đặc trưng cho các loại hình du lịch.

Tài nguyên du lịch còn ảnh hưởng đến sự quan tâm và thu hút du khách. Những tài nguyên du lịch mới lạ sẽ có tác dụng kích thích sự tò mò hiếu kỳ của du khách đến tham quan hoặc những nơi có nguồn tài nguyên du lịch đẹp hấp dẫn sẽ làm cho du khách cảm thấy thích thú và cuốn hút. Họ sẽ muốn đến trải nghiệm trong những lần sau.

1.3. Sản phẩm du lịch‌

1.3.1. Khái niệm‌

Có thể hiểu, sản phẩm là tất cả những gì con người làm ra để thỏa mãn nhu cầu bản thân và xã hội. Sản phẩm là một khái niệm cơ bản trong mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Trong lĩnh vực du lịch, sản phẩm du lịch là một khái niệm khá trừu tượng và khó xác định.

Theo M.M.Coltman: “Sản phẩm du lịch là một tổng thể bo gồm các thành phần không đồng nhất, hữu hình và vô hình. Sản phẩm du lịch có thể là một món hàng cụ thể như thức ăn, hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng dịch vụ, bầu không khí tại nơi nghỉ mát”. (dẫn theo Trần Ngọc Nam và Trần Huy Quang, 2005)

Theo quan niệm của Đức (từ điển du lịch, NXB Kinh Tế, Berlin 1984): “Sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng”. (dẫn theo Nguyễn Văn Lưu, 1998).

Theo pháp lệnh du lịch Việt Nam (1999): “Sản phẩm du lịch được tạo ra do sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tài nguyên du lịch nhằm đáp ứng nhu của khách du lịch”.


Như vậy, sản phẩm du lịch chính là sự kết hợp giữa tài nguyên du lịch và các dịch vụ du lịch. Có thể biểu diễn bằng công thức sau:

Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + Dịch vụ du lịch

1.3.2. Các thành phần của sản phẩm du lịch‌

Theo R.Lanquar và R.Hollier (1992), “Sản phẩm du lịch là một tổng thể rất phức tạp gồm các thành phần không đồng nhất”. Người ta đã có cùng quan niệm rằng sản phẩm này bao gồm những thành phần sau:

- Một di sản gồm các tài nguyên thiên nhiên, văn hóa, nghệ thuật, lịch sử hay công nghệ có khả năng thu hút khách du lịch và thúc đẩy chuyến đi của họ.

- Những trang bị mà bản thân chúng không phải là yếu tố gây ảnh hưởng cho mục đích chuyến đi, nhưng nếu thiếu thì chuyến đi không thể thực hiện được: nơi ăn chốn ở, các trang bị về văn hóa, vui chơi và thể thao.

- Những thuận lợi có liên quan đến phương tiện chuyên chở mà khách du lịch có thể dùng để đi tới địa điểm đã chọn. Những thuận lợi này được tính toán về mặt kinh tế hơn là về khoảng cách địa lý.

Nhìn chung, có nhiều cách phân chia các thành phần của sản phẩm du lịch, có thể phân theo hình thái vật chất, theo loại hình dịch vụ, theo tính chất dịch vụ, v.v…

1.3.2.1. Thành phần sản phẩm du lịch phân theo hình thái vật chất‌

Một sản phẩm du lịch có thể bao gồm 2 thành phần:

- Hàng hóa (sản phẩm hữu hình)

- Dịch vụ (sản phẩm vô hình)

Ví dụ, một bữa ăn tại nhà hàng có những yếu tố hàng hóa như món ăn, đồ uống…nhưng phải được cung ứng qua các dịch vụ ăn uống.

Trong 2 thành phần nói trên, dịch vụ là yếu tố cơ bản của sản phẩm du lịch. Vì vậy, người ta thường nói, sản phẩm du lịch có tính dịch vụ. Mọi sản phẩm du lịch đều được thực hiện thông qua các dịch vụ. Ví dụ, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ ăn uống, dịch vụ lưu trú, dịch vụ hướng dẫn, dịch vụ mua sắm, dịch vụ giải trí…

Dịch vụ chiếm tỷ lệ cao trong sản phẩm du lịch và mang tính quyết định trong việc mua bán sản phẩm du lịch. Tuy hàng hóa vật chất cũng được mua bán trên thị


trường du lịch (đồ ăn, thức uống, hàng lưu niệm…) nhưng chiếm tỷ lệ ít hơn và thường gắn với các dịch vụ tương ứng (dịch vụ ăn uống, dịch vụ bán hàng lưu niệm…). Doanh thu dịch vụ thường chiếm khoảng 80% tổng doanh thu du lịch.

1.3.2.2. Thành phần của sản phẩm du lịch phân theo loại hình dịch vụ‌

- Dịch vụ vận chuyển khách

- Dịch vụ lưu trú, ăn uống

- Dịch vụ vui chơi, giải trí

- Dịch vụ mua sắm

- Dịch vụ khác

1.3.2.3. Thành phần sản phẩm du lịch phân theo tính chất dịch vụ‌

Nhìn chung, tất cả các loại dịch vụ trong sản phẩm du lịch được chia thành 3

loại:

- Dịch vụ cơ bản: đây là những dịch vụ thiết yếu nhằm đáp ứng các

nhu cầu cơ bản của du khách trong quá trình du lịch: Ăn uống, lưu trú, vận chuyển

- Dịch vụ đặc trưng: đây là các nhu cầu gắn với mục đích của mỗi chuyến du lịch. Nhu cầu du lịch càng phát triển thì dịch vụ đặc trưng càng lớn.

- Dịch vụ bổ sung: đây là các nhu cầu mở rộng trong một chuyến du lịch: Vui chơi, giải trí, mua sắm,…

Dịch vụ đặc trưng và dịch vụ bỏ sung tuy khác nhau về tính chất nhưng trên thực tế rất khó tách biệt. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp các dịch vụ bổ sung lại trở thành động cơ du lịch nên người ta thường gọi chung là dịch vụ bổ sung.

1.3.3. Đặc điểm của sản phẩm du lịch‌

1.3.3.1. Sản phẩm du lịch không hiện hữu trước người mua‌

Khác với hàng hóa thông thường, đối tượng mua bán (sản phẩm du lịch) trên thị trường du lịch không hiện hữu trước người mua. Người bán không có sản phẩm tại nơi chào bán và không có khả năng mang sản phẩm cần bán đến với khách hàng. Sản phẩm du lịch được bán cho khách trước khi họ nhìn thấy nó. Nếu như đối với các hàng hóa thông thường, người mua được tận mắt nhìn thấy sản phẩm rồi mới quyết định mua, thì đối với du lịch, sản phẩm du lịch thường cách xa nơi ở của

Xem tất cả 158 trang.

Ngày đăng: 02/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí