Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Của Giáo Viên Trong Trường Thpt

Công cụ



Phương pháp


Đối tượng quản lý

Chủ thể quản lý

Sơ đồ 1.1: Mô hình quản lý

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Trong đó:


Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông Việt Bắc tỉnh Lạng Sơn - 3

Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức.

Khách thể (đối tượng) quản lý là những con người cụ thể và sự hình thành tự nhiên các quan hệ giữa những con người, giữa các nhóm người khác nhau.

Công cụ quản lý và phương tiện tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý như: Mệnh lệnh, quyết định, chính sách, luật lệ…

Phương pháp quản lý được xác định theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể là do nhà quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý.

Quản lý có bốn chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng chính của hoạt động quản lý luôn được thực hiện liên tiếp, đan xen vào nhau, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành chu trình quản lý. Trong chu trình này, yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn, nó vừa là điều kiện vừa là phương tiện không thể thiếu được khi thực hiện chức năng quản lý và ra quyết định quản lý.

Tác giả Nguyễn Quốc Chí đã nhấn mạnh vai trò của thông tin trong quản lý: “ không có thông tin không có quản lý ”

Kiểm tra

Thông tin

Tổ chức

Mối liên hệ các chức năng quản lý được thực hiện qua sơ đồ sau


Kế hoạch



Chỉ đạo

Sơ đồ 1.2: Quan hệ các chức năng quản lý

1.2.1.2. Biện pháp quản lý

Biện pháp: theo từ điển Tiếng Việt thông dụng do Nguyễn Như Ý chủ biên, biện pháp là “cách làm, cách thức tiến hành”. Biện pháp là cách thức hành động để thực hiện một mục đích, là cách làm giải quyết một vấn đề cụ thể.

Biện pháp là một bộ phận của phương pháp, điều đó có nghĩa là để sử dụng một phương pháp nào đó phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, cùng một biện pháp có thể sử dụng trong nhiều phương pháp.

Biện pháp quản lý là cách thức tác động vào đối tượng quản lý giúp chủ thể nâng cao khả năng hoàn thành có kết quả các mục tiêu đề ra. Các biện pháp được đánh giá theo các tiêu chí sau:

Tính thừa kế: không làm sáo trộn, hay quá thay đổi cái đã có mà kế thừa có chọn lọc.

Tính phù hợp: biện pháp đưa ra là những biện pháp phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

Tính khả thi: biện pháp không bị các yếu tố chi phối, nó ràng buộc ở mức độ cao.

Tính hiệu quả: biện pháp giải quyết được vấn đề đặt ra và không làm nảy sinh những vấn đề phức tạp hơn.

Các yếu tố ràng buộc gồm: quyền lực, văn hóa, đạo đức, tài chính, thời gian, con người và chính sách pháp luật.

1.2.2. Năng lực dạy học

Như trên đã phân tích, năng lực không mang tính chung chung mà khi nói đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói đến năng lực cũng thuộc về một hoạt động cụ thể nào đó như năng lực toán học của hoạt động học tập hay nghiên cứu toán học, năng lực hoạt động chính trị của hoạt động chính trị, năng lực giảng dạy của hoạt động giảng dạy… .Như vậy có thể định nghĩa năng lực nghề nghiệp như sau: “Năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những thuộc tính tâm, sinh lý của con người với những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra. Nếu không có sự tương ứng này thì con người không thể theo đuổi nghề được” ở mỗi một nghề nghiệp khác nhau sẽ có những yêu cầu cụ thể khác nhau, nhưng tựu trung lại thì năng lực nghề nghiệp nói chung và năng lực dạy học nói riêng được cấu thành bởi các thành tố:

Tri thức chuyên môn (tri thức môn học)

Kỹ năng hành nghề (kỹ năng sư phạm hay kỹ năng dạy học)

Vậy, năng lực dạy học là tổ hợp các phẩm chất của giáo viên bao gồm tri thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của giáo viên trong quá trình dạy học.

1.2.3. Bồi dưỡng năng lực dạy học

Như phân tích trên ta thấy, năng lực dạy học là tổ hợp các phẩm chất của giáo viên bao gồm tri thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của giáo viên trong quá trình dạy học. Do đó, bồi dưỡng năng lực dạy học giáo viên là quá trình tổ chức cho giáo viên cập nhật, bổ sung các tri thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm để nâng cao trình độ về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình dạy học.

1.2.4. Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên trong trường THPT

Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn gồm hoạt động dạy và hoạt động học luôn luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau. Sự tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác, trong đó dạy giữ vai trò chủ đạo.

Quá trình dạy học là quá trình bảo đảm cùng một lúc ba sự thống nhất Thống nhất giữa dạy và học; Thống nhất giữa truyền đạt với chỉ đạo trong dạy; Thống nhất giữa lĩnh hội và tự chỉ đạo trong học.

Bản chất của quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của dạy và học; nó được thực hiện trong và bằng sự tương tác có tính chất cộng đồng và hợp tác (cộng tác) giữa dạy và học, tuân theo lôgíc khách quan của nội dung dạy học (khái niệm khoa học – đối tượng của học).

1.2.4.1. Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên

Một là: Quản lý giáo viên thực hiện chương trình dạy học Chương trình dạy học là văn kiện có tính pháp qui do Nhà nước ban hành, trong đó qui định một cách cụ thể: Vị trí, môn học trong kế hoạch dạy học; Mục đích yêu cầu của môn học (yêu cầu về tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thái độ hànhvi); Nội dung môn học (các phần, các chương, các bài); Kế hoạch thời gian: số tiết dành cho từng phần, từng chương, từng bài cũng như số tiết dành cho ôn tập, kiểm tra, thực hành... Giải thích chương trình và hướng dẫn thực hiện chương trình; Thực hiện chương trình dạy học là thực hiện kế hoạch đào tạo theo mục tiêu đào tạo của nhà trường; Về nguyên tắc, chương trình dạy học là pháp lệnh của Nhà nước do Bộ GD&ĐT ban hành, người giáo viên phải thực hiện nghiêm chỉnh, không được tùy tiện thay đổi,thêm bớt làm sai lệch chương trình dạy học; Chương trình dạy học là công cụ chủ yếu để Nhà nước lãnh đạo và giám sát hoạt động dạy học của nhà trường thông qua các cơ quan quản lý giáo dục. Đồng thời nó cũng là căn cứ pháp lý để nhà trường và các giáo viên tiến hành tổ chức công tác giảng dạy thống nhất trong phạm vi toàn quốc, học sinh tiến hành học tập theo yêu cầu chung; Giáo viên cần nghiên cứu nắm vững chương trình môn học mà mình phụ trách.

Đồng thời cũng tìm hiểu, nghiên cứu chương trình các môn có liên quan để có thể thiết lập mối quan hệ liên môn trong quá trình dạy học. Qua đó, giúp học sinh dễ dàng có bức tranh chung về thế giới và cho các em có quan điểm phức hợp hệ thống cũng như có tư duy linh hoạt mềm dẻo khi học các môn học.

Hiệu trưởng nhà trường có trách nhiệm quản lý đội ngũ giáo viên thực hiện đúng yêu cầu của chương trình dạy học (trong tình huống cụ thể của từng địa phương cần vận dụng linh hoạt trong chừng mực và phạm vi cho phép dưới sự chỉ đạo của cấp trên).

Hai là: Quản lý công tác chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên: Việc chuẩn bị giờ lên lớp quyết định đến chất lượng giờ lên lớp và chất lượng quá trình dạy học. Việc giáo viên tự chuẩn bị cho các giờ lên lớp là việc quan trọng nhất trong qui trình lao động sư phạm. Việc tự chuẩn bị của giáo viên là một khâu lao động trí óc độc lập, giáo viên có thể tự quyết định thực hiện ở nhà hay ở trường (nơi có điều kiện làm việc thuận lợi nhất). Nếu người giáo viên không có đầy đủ tinh thần trách nhiệm, không có chế độ làm việc trong ngày rõ ràng, không chuẩn bị sớm cho các giờ lên lớp thì công việc sẽ hời hợt và mang tính hình thức.

Ba là: Quản lý giờ dạy trên lớp của giáo viên: Giờ học là yếu tố quan trọng cơ bản có tính chất quyết định kết quả đào tạo giáo dục của nhà trường. Trước hết, giờ học mang tính bắt buộc đối với mọi học sinh, trên cơ sở chương trình do Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành, giờ học chiếm phần lớn thời gian của quá trình đào tạo; Hoạt động dạy học được thể hiện chủ yếu bằng hình thức dạy học trên lớp với những giờ lên lớp và hệ thống bài học. Giờ lên lớp của giáo viên phản ánh toàn bộ những gì họ đã tích lũy được, đã nghiền ngẫm, đã luyện tập đồng thời cũng là lúc thể hiện tinh thần trách nhiệm nơi họ. Trong giờ dạy trên lớp, mỗi công việc, mỗi thái độ biểu thị trước học sinh của giáo viên đều là những chi tiết thể hiện phương pháp dạy học, phương pháp đó còn được thể hiện ở sự hài hòa giữa công việc của thày và trò; ở sự cân đối giữa các khâu công việc của thầy (giảng kiến thức mới và luyện tập kỹ năng; truyền thụ và kiểm tra); ở sự đúng lúc, đúng mức độ của thái độ động viên khuyến khích hoặc chê trách học sinh.

Bốn là: Quản lý việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh Trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của

học sinh là một khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và mức độ chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, thái độ học tập của học sinh, nó vừa đóng vai trò bánh lái, vừa giữ vai trò động lực của dạy học. Có nghĩa là nó có tác dụng định hướng, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động dạy học và hoạt động quản lý giáo dục.

1.2.3.2. Quản lý hoạt động học của học sinh

Hiệu trưởng phải quan tâm đến hoạt động học tập của học sinh như quan tâm đến hoạt động dạy của thầy. Thông qua giáo viên hiệu trưởng thực hiện sự quản lý hoạt động học tập của học sinh. Học tập là một hoạt động nhận thức, chỉ khi có nhu cầu hiểu biết học sinh mới tích cực học tập. Nhu cầu hiểu biết đó chính là động cơ nhận thức mà hoạt động học tập phải tạo ra cho học sinh. Học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể trong hoạt động dạy - học, vì vậy, quản lý hoạt động học của học sinh là khâu quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.

Hiệu trưởng cần thấy rõ quản lý hoạt động học tập của học sinh phải bao quát được cả không gian và thời gian học tập để điều hòa cân đối chung. Điều khiển chúng hoạt động phù hợp với tính chất và qui luật hoạt động dạy và học. Không gian hoạt động học tập của họcsinh là từ trong lớp, ngoài lớp đến ở nhà. Thời gian hoạt động học của học sinh bao gồm giờ học trên lớp, giờ học ở nhà và thời gian thực hiện các hình thức học tập khác.

Vấn đề quản lý hoạt động học tập của học sinh đặt ra với hiệu trưởng không phải chỉ trên bình diện khoa học giáo dục mà còn là một đòi hỏi có ý nghĩa về tinh thần trách nhiệm của nhà quản lý giáo dục đối với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.

1.2.3.3 .Quản lý chỉ đạo hoạt động tổ chuyên môn

Tổ chuyên môn là hình thức tổ chức nghề nghiệp đã có từ lâu trong nhà trường. Đây là đơn vị cơ sở trực tiếp nhất với các hoạt động của giáo viên. Tổ chuyên môn là một tổ chức trong nhà trường, tập hợp các giáo viên có cùng chuyên môn giúp họ hành động theo mục tiêu thống nhất. Hoạt động của tổ

chuyên môn là tạo điều kiện cho giáo viên hoàn thành nhiệm vụ của mình trong quá trình dạy học – giáo dục. Thông qua tổ chuyên môn, hiệu trưởng sẽ nắm được sâu sát hoạt động của giáo viên, phát huy cao độ sự thống nhất giữa hiệu trưởng với các thành viên trong tập thể sư phạm. Vì vậy, tăng cường chỉ đạo hoạt động của tổ chuyên môn là mối quan tâm thường xuyên của hiệu trưởng. Hay nói cách khác, quá trình quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng luôn luôn gắn chặt với việc chỉ đạo hoạt động của tổ chuyên môn.

1.2.3.4 . Quản lý cơ sở vật chất , thiết bị dạy học

Quản lý dạy học không thể thiếu các thiết yếu hỗ trợ nhý CSVC trường học.Quản lý tốt các điều kiện này sẽ tác động mạnh mẽ đến chất lượng dạy và học. đó là phương tiện giúp giáo viên chuyển tải tri thức, rèn luyện kỹ năng cho HS.

Người quản lý phải quan tâm đến ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý các bộ phận thiết bị, thư viện, văn phòng,…

Đảm bảo CSVC trường học. Nhiệm vụ chung là cung cấp đầy đủ các điều kiện về trường lớp, phòng thí nghiệm thực hành, các phương tiện phục vụ cho dạy học. đồng thời tạo điều kiện tốt nhất nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ GV

1.3. Đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục phổ thông

1.3.1. Chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh

1.3.1.1. Chủ trương chung

Hiện nay ngành GD&ĐT đang đẩy mạnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học.

Một là: Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học

Đối với giáo dục phổ thông, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng:

Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học, tập trung dạy cách học, cách nghĩ và tự học, theo phương châm “giảng ít, học nhiều”.

Chuyển quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, bồi dưỡng hứng thú và hình thành năng lực tự học để đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của mỗi học sinh.

Coi trọng sự phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

Chuyển cách học từ chủ yếu là lắng nghe và ghi chép sang suy nghĩ và phản hồi tích cực với bạn, với thầy, phối hợp các hoạt động học tập của cá nhân và của nhóm.

Chuyển từ chủ yếu thực hiện chương trình giáo dục trên lớp học sang tổ chức đa dạng các hình thức thực hiện chương trình giáo dục; tăng cường các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học của người học.Các nhiệm vụ học tập có thể được thực hiện ở trong hoặc ngoài giờ lên lớp, ở trong hay ngoài phòng học. Ngoài việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, cần coi trọng giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, ở ngoài nhà trường.

Hai là: Đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục

Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục, bảo đảm trung thực, khách quan, chính xác, theo yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất học sinh.Hoạt động kiểm tra, đánh giá sẽ cung cấp những cơ sở tin cậy cho việc điều chỉnh cách dạy, cách học.

Nội dung, hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục phải chú trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn.

Hạn chế yêu cầu ghi nhớ máy móc, “học tủ”.

Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học và đánh giá cuối kỳ, cuối năm học.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí