chỉnh đốn Đảng”; Phạm Hồng Chương (2014) với “Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đặc trưng chính trị của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; Hồ Bá Thâm (2002) với “Phát triển năng lực tư duy của người lãnh đạo quản lý hiện nay”; Trần Thành (2001) với “Tư duy lý luận đối với người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn”; Đào Duy Quát với “Đổi mới phương thức công tác tư tưởng - Sự cần thiết và những việc cần làm ngay”; Nguyễn Trọng Điều (2001) với “Nâng cao chất lượng ĐT, BD cán bộ, công nhà nước”,…
Tóm lại, từ các nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước cho thấy một số vấn đề cơ bản như sau:
Một là, các nghiên cứu đều khẳng định vấn đề quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng, nhà nước ta về BD nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ các cấp. BD lý luận chính trị cho cán bộ, công chức là nhiệm vụ rất cần thiết giúp nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị, củng cố lập trường cho cán bộ trong thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao. Từ đó góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vững vàng về tư tưởng chính trị, dày dặn về kinh nghiệm thực tiễn trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Hai là, BD nghiệp vụ cho cán bộ, công chức nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng hoạt động thực tiễn là nội dung rất quan trọng, giúp công chức thực hiện và giải quyết, xử lí hiệu quả các tình huống trong thực tiễn đảm bảo mục tiêu, yêu cầu của từng chức danh, vị trí công việc đảm nhiệm. Nâng cao năng lực thực tiễn của mỗi cá nhân chính là nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, năng lực lãnh đạo của tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị của nước ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đề cập hoặc đề cập rất mờ nhạt trong các công trình nghiên cứu kể trên.
Ba là; quản lý hoạt động BD lý luận chính trị, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức là trách nhiệm của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, mà trực tiếp, cụ thể là nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đảm bảo hoạt động BD cán bộ đạt được mục tiêu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị, địa phương trong cả nước.
Bốn là, các công trình nghiên cứu có nhiều vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, đó là hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở. Các nghiên cứu đều đã phản ánh trung thực và sâu sắc những mặt mạnh, những bất cập cũng như những hạn chế về công tác ĐT, BD lý
luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng; đồng thời đã đánh giá về nội dung chương trình, phương pháp và hình thức tổ chức, sự phân công, phân cấp trong quản lý, thực hiện ĐT, BD cho đội ngũ cán bộ, công chức. Đã chỉ ra các hạn chế là: ĐT, BD nói chung chưa bám sát yêu cầu thực tiễn đặt ra, còn nặng về lí thuyết, ít thực hành; công tác lập kế hoạch BD chưa phù hợp nhu cầu học viên; việc kiểm tra đánh giá kết quả BD chưa sát thực; cơ sở vật chất phục vụ hoạt động BD chưa đáp ứng được yêu cầu...
Từ tổng quan nghiên cứu ở trên, NCS rút ra một số vấn đề cần tập trung làm rõ trong luận án như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh - 2
- Luận Án Có Thể Dùng Làm Tài Liệu Tham Khảo Cho Nghiên Cứu, Giảng Dạy Tại Các Cơ Sở Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Trong Cả Nước.
- Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh - 4
- Hoạt Động Bồi Dưỡng Lý Luận Chính Trị Và Nghiệp Vụ Cho Đội Ngũ Cán Bộ Mặt Trận Tổ Quốc Cấp Cơ Sở
- Quản Lý Hoạt Động Bồi Dưỡng Lý Luận Chính Trị Và Nghiệp Vụ Cho Đội Ngũ Cán Bộ Mặt Trận Tổ Quốc Cấp Cơ Sở
- Trình Độ, Năng Lực, Nhận Thức Của Giảng Viên Và Học Viên
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
Thứ nhất: BDLLCT và NV cho cán bộ là để phát triển được đội ngũ cán bộ đủ điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan đơn vị; đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ các cấp nói chung, cấp cơ sở nói riêng. Đồng thời, khắc phục những hạn chế, bổ sung những thiếu hụt về chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ hiện tại và tương lai của cơ quan, đơn vị.
Đối tượng BD cần tập trung nghiên cứu trong luận án này là quản lý hoạt động BD về LLCT, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở của tỉnh Bắc Ninh, bao gồm cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm đang làm việc từ MTTQ cấp huyện đến ban công tác cộng đồng ở địa phương.
Thứ hai: Ở nước ta, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện là đơn vị trực tiếp thực hiện các hoạt động bồi dưỡng cán bộ theo chương trình BDLLCT của các huyện ủy, tỉnh ủy; BD chuyên môn, nghiệp vụ theo chương trình của mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Ninh và các huyện, thành phố, thị xã.
Hoạt động BDLLCT và NV cho đội ngũ cán bộ MTTQ cấp cơ sở dưới sự chỉ đạo trực tiếp của MTTQ tỉnh Bắc Ninh cùng Tỉnh ủy Bắc Ninh, các cấp ủy cấp huyện trong tỉnh.
Thứ ba: BDLLCT và NV cho đội ngũ cán bộ MTTQ cấp cơ sở là việc tiến hành các hoạt động cung cấp, cập nhật những kiến thức mới về LLCT, về chuyên môn, nghiệp vụ và rèn luyện kỹ năng công tác cho cán bộ, công chức làm công tác mặt trận cấp cơ sở để nâng cao nhận thức, tăng cường bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ, năng lực hoạt động thực tiễn hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ cá nhân được giao cũng như vai trò, nhiệm vụ mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở địa phương.
Thứ tư: Trong hoạt động ĐT, BD cán bộ, cần chú trọng phối hợp các tổ chức, đơn vị liên quan về giáo dục, đào tạo, quản lý cán bộ; các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm hoạt động trong thực tiễn tham gia giảng dạy để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức tại cơ sở sau khi được BDLLCT và nghiệp vụ.
Với tinh thần đó, NCS kế thừa kết quả của các nghiên cứu trong và ngoài nước để tiếp tục thực hiện mục tiêu, nội dung luận án đặt ra.
1.2. Các khái niệm cơ bản của luận án
1.2.1. Lý luận chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [30]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận chân chính là “đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh trong thực tế” [28].
Tuỳ theo cách tiếp cận cũng như việc bảo vệ lợi ích cho mỗi giai cấp mà người ta đưa ra các quan điểm về chính trị sao cho phù hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Chính trị là những công việc của nhà nước, những hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [28]. Từ đó, có thể hiểu chính trị là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, là sự điều hành của nhà nước gắn chặt với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các tổ chức xã hội khác nhau mà xuyên suốt là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
Như vậy, với góc độ tiếp cận khái niệm lý luận và chính trị như trên, có thể hiểu khái niệm lý luận chính trị ở góc độ chính trị học như sau: Lý luận chính trị là một hệ thống lý luận được tổng kết trong thực tiễn về kinh nghiệm, tri thức của con người trong xã hội có giai cấp, là vũ khí đấu tranh cho lợi ích của một chính đảng, một giai cấp nhất định. Tương tự như vậy, ở một góc độ khác chúng tôi cho rằng: Lý luận chính trị thực chất là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực của nhà nước. Lý luận chính trị có vai trò quan trọng đối với nhận thức và hành động của từng cá thể và sự phát triển của một xã hội, nhưng để nhận thức và vận dụng lý luận chính trị một cách sáng tạo, phù hợp vào thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Lý luận chính
trị có thể được hiểu là sự phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội, thể hiện qua lợi ích và thái độ của giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
Đặc trưng của lý luận chính trị là phải mang tính khái quát, tính trừu tượng, tính chính xác, chặt chẽ lôgíc đồng thời đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng và tính khoa học.
1.2.2. Nghiệp vụ, nghiệp vụ cán bộ Mặt trận Tổ quốc
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: “Nghiệp vụ là công việc thuộc chuyên môn riêng của một nghề” [89, tr.273].
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Nghiệp vụ là các kỹ năng, biện pháp thực hiện công việc chuyên môn của một nghề” [50, tr.1.027].
Từ các khái niệm đó, theo chúng tôi, trong luận án này có thể hiểu khái niệm: Nghiệp vụ là kiến thức, kỹ năng và biện pháp thực hiện công việc chuyên môn của một người đã được ĐT.
Theo đó, nghiệp vụ của cán bộ Mặt trận Tổ quốc là những kiến thức, phương pháp, kỹ năng làm việc của cán bộ, công chức công tác trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc các cấp. Ngoài ra, nó còn bao gồm năng lực hoạt động trong hoạt động vận động đoàn kết nhân dân theo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.2.3. Cấp cơ sở
- Về cơ sở: Theo Từ điển Tiếng Việt thì Cơ sở là: (1) Cái làm nền tảng, trong quan hệ với những cái xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển. (2) Đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như sản xuất, công tác, v.v… của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ phận lãnh đạo cấp trên. (3) Người hoặc nhóm người làm chỗ dựa, trong quan hệ với tổ chức dựa vào những người đó để hoạt động, thường là hoạt động bí mật.
- Về cấp cơ sở, theo Luật tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 ngày 19/6/2015 thì: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: (1) Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (2) Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; (3) Xã, phường, thị trấn; (4) Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Theo Cao Anh Đô (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) thì: “Nói đến chính quyền nhà nước ở cơ sở là nói đến chính quyền cấp xã. Xã là một khái niệm hành chính ở cơ sở, ổn định và cố định ở nông thôn” [Cao Anh Đô, Thực thi quyền
lực nhà nước ở cơ sở - Những nội dung cơ bản, website Viện Khoa học Tổ chức nhà nước].
Như vậy, Cấp xã hay còn gọi là cấp cơ sở, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền bốn cấp ở nước ta. Cấp xã là cấp hành động, cấp hoạt động, tổ chức thực hiện đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
- Đặc điểm cấp xã, cấp cơ sở:
(1) Là cấp gần với cộng đồng dân cư, tổ chức và hoạt động mang tính tự quả cao;
(2) Là cấp triển khai thực hiện trên thực tế chính sách, pháp luật của Đảng, nhà nước;
(3) Là cấp có tổ chức bộ máy đơn giản nhất, đội ngũ cán bộ biến động nhất, ít chuyên nghiệp;
(4) Là cấp mà quan hệ học hàng, văn hóa truyền thống, phong tục tập quán… có thể tác động mạnh nhất vào xử sự của mọi người;
(5) Là cấp đầu tiên đối mặt với yêu cầu, bức xúc của nhân dân và giải quyết những yêu cầu đó.
- Vai trò cấp xã, cấp cơ sở: theo PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) thì vai trò của chính quyền xã thể hiện tính chất đặc thù của hệ thống chính quyền ở cơ sở xã; đồng thời, phải phản ánh tính chất tự quản khá cao của nó, nhất là trong bối cảnh xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay. Chính quyền xã có các vai trò là:
(1) Là cầu nối giữa Nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã;
(2) Đại diện cho Nhà nước và nhân danh Nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước;
(3) Trực tiếp triển khai, tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ở xã;
(4) Điều tiết sự tự quản của các thôn/làng trên địa bàn xã về phát triển nông thôn.
- Yêu cầu đặt ra đối với chính quyền cấp xã, cấp cơ sở: Phải đủ mạnh, thể hiện đầy đủ quyền lực của mình trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó. Đồng thời, phải mềm dẻo, linh hoạt trong tiếp xúc, làm việc với người dân
- những người luôn luôn bị các mối quan hệ cộng đồng truyền thống chi phối, nhằm đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi đa dạng của mỗi người dân, mỗi dòng họ, mỗi thôn làng, sao cho vừa đúng pháp luật, vừa phù hợp với truyền thống và điều kiện của mỗi địa
phương, mỗi tộc người [Nguyễn Thanh Tuấn Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. http://www.tapchicongsan.org.vn].
1.2.4. Cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở
Khái niệm cán bộ đã được đề cập trong các văn kiện Đại hội và các Nghị quyết chuyên đề về công tác cán bộ của Đảng, trong các giáo trình BD cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể. Có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về khái niệm cán bộ như sau: Cán bộ là những người giữ vai trò chủ chốt trong một tổ chức, giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; có chức năng đề ra mục tiêu, phương hướng hoạt động, tổ chức và phối hợp hành động của các thành viên trong tổ chức, thiết lập và xử lý các mối quan hệ phối hợp trong và ngoài tổ chức để thực hiện mục tiêu mà tổ chức đã đề ra.
Cán bộ cấp cơ sở có nhiệm vụ thực hiện chức năng cơ bản về lãnh đạo, quản lý trên địa bàn và trực tiếp tổ chức các hoạt động ở thực tiễn cơ sở, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, đoàn thể với nhân dân.
Cán bộ cơ sở có những chức năng cơ bản về lãnh đạo và quản lý có tính đặc thù, đó là: (1) Cán bộ cơ sở phải trực tiếp tổ chức hoạt động thực tiễn, trực tiếp lãnh đạo và tổ chức nhân dân lao động sáng tạo để làm ra của cải vật chất, văn hóa cho xã hội, mọi việc đều gắn với nhân dân. (2) Cán bộ cơ sở thường phải kiêm nhiệm nhiều việc. Nếu càng lên cấp trên cán bộ càng đi vào chuyên môn hóa và phân ngành sâu sắc, thì ở cơ sở, cán bộ lại đòi hỏi phải “đa năng”, vừa thực hiện một số nhiệm vụ được phân công, vừa phải là người tuyên truyền, dân vận giỏi, trực tiếp giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, trực tiếp tham gia và dẫn dắt các phong trào cách mạng ở cơ sở. Do vậy, cán bộ cơ sở có vai trò hết sức quan trọng; thể hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa cán bộ và sự nghiệp cách mạng của quần chúng.
Từ phân tích trên, có thể hiểu: Cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở là những người làm việc trong hệ thống Mặt trận ở địa phương cơ sở, có nhiệm vụ đề ra mục tiêu, phương hướng hoạt động; tổ chức và phối hợp các thành viên trong mặt trận để thực hiện mục tiêu mà Mặt trận Tổ quốc đề ra.
Một số tính chất, đặc điểm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở cần chú ý như sau:
- Cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở nói riêng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, từ bộ đội, công an, công nhân, giáo viên, có cả cán bộ về hưu, một phần đông được trưởng thành từ nông thôn. Trình độ nhận thức của đội ngũ cán
bộ mặt trận nói chung không đồng đều, một bộ phận ở nông thôn trình học vấn, kiến thức pháp luật thấp.
- Cán bộ Mặt trận Tổ quốc phải có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam; không hoang mang, dao động trước những diễn biến phức tạp trong cuộc sống thực tiễn; có ý thức tôn trọng kỷ luật; luôn thống nhất giữa lời nói với việc làm để quần chúng nhân dân noi theo. Phải được ĐT về lý luận chính trị và phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có hiểu biết, có kiến thức văn hóa rộng, hiểu biết về đất nước, xã hội và con người Việt Nam và truyền thống, lịch sử, văn hóa địa phương mình; tôn trọng và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Có năng lực, kỹ năng hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, có phong cách làm việc dân chủ và khả năng đối thoại với nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội; có khả năng giao tiếp, ứng xử và tập hợp quần chúng nhân dân; có khả năng nắm bắt dư luận xã hội theo hướng tích cực; tích lũy được nhiều kinh nghiệm hoạt động trong thực tiễn để xử lý cho mỗi tình huống cụ thể.
Cán bộ mặt trận Tổ quốc phải được trang bị tri thức về nhiều lĩnh vực phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc; trình độ kiến thức cơ bản đủ để tổ chức và hướng dẫn quần chúng nhân dân trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
1.2.5. Bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở
Theo Đại Từ điển tiếng Việt: BD là làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất [89, tr.57].
Theo quan niệm của UNESCO: BD với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp, quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp [34, tr.88]…
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường (Đề tài KX - 07 - 14) thì: BD có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường được xác nhận bằng một chứng chỉ.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm BD là quá trình bổ sung tri thức và kỹ năng nhằm tăng cường về năng lực và phẩm chất của đối tượng được BD.
Bồi dưỡng là một hoạt động, được xác định bởi các thành phần cụ thể: Mục đích BD, nội dung BD, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động BD, điều kiện BD…
Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐT, BD công chức thì: “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.
Như vậy, trong phạm vi đề tài chúng ta có thể hiểu: BD lý luận chính trị và nghiệp vụ cho cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở là quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng mới về công tác dân vận, tập hợp quần chúng để cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở có thể đảm nhận và thực hiện tốt hơn một (hoặc nhiều) công việc đã được ĐT, qua đó tăng cường năng lực và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ này.
Bồi dưỡng cho cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở có vai trò hết sức quan trọng trong công tác Mặt trận hiện nay. BD cán bộ có thể coi là một dạng ĐT cán bộ đặc biệt, là con đường đi tiếp của ĐT cán bộ, được hướng vào những người đang công tác tại Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở, giúp họ đáp ứng được yêu cầu công việc ngày càng cao.
1.2.6. Quản lý hoạt động Bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về quản lý của các nhà nghiên cứu theo hướng tiếp cận khác nhau với các phạm trù khác nhau.
Fredrich Taylor (1856 - 1915), một nhà kinh tế học Anh cho rằng: “Quản lý là một nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”. Theo ông, quản lý là sự liên kết thống nhất hai bộ phận: tri thức và lao động. Tri thức và lao động đòi hỏi một phương thức quản lý phù hợp và ngược lại, quản lý tác động tạo điều kiện cho tri thức và lao động phát triển đi lên.
Theo P.Barager (1945) người Đức thì: “Quản lý là sự cai trị một tổ chức bằng cách đặt ra các mục tiêu và hoàn chỉnh các mục tiêu đã xác định, là sự lựa chọn và sử dụng các phương tiện, điều kiện để đạt mục tiêu”.
Theo từ điển Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Quản lý là việc tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, một cơ quan” [75, tr.58].
Theo Mai Hữu Khuê thì: “Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp của các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy quản lý thành một chỉnh thể thống nhất điều hòa, phối hợp các khâu và các cấp cho nhịp nhàng, hiệu quả” [42, tr.81].