- Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho cán bộ MTTQ cấp cơ sở là có căn cứ khoa học, thực tiễn. Việc vận dụng biện pháp bước đầu cho thấy đã góp phần cải thiện công tác quản lý hoạt động BD lý luận chính trị, nghiệp vụ cho cán bộ mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh theo hướng hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của cán bộ cũng như hiệu quả công tác của mặt trận cấp cơ sở.
9.3. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong cả nước.
10. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động BD lý luận chính trị và nghiệp vụ cho cán bộ đội ngũ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc quản lý hoạt động BD lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động BD lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh.
Chương 1
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh - 1
- Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh - 2
- Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh - 4
- Nghiệp Vụ, Nghiệp Vụ Cán Bộ Mặt Trận Tổ Quốc
- Hoạt Động Bồi Dưỡng Lý Luận Chính Trị Và Nghiệp Vụ Cho Đội Ngũ Cán Bộ Mặt Trận Tổ Quốc Cấp Cơ Sở
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ NGHIỆP VỤ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ MẶT TRẬN TỔ QUỐC CẤP CƠ SỞ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về ĐT, BD công chức nhà nước, nhưng trong phạm vị nghiên cứu của đề tài, có thể kể đến một số nghiên cứu sau:
Năm 2001, các nhà giáo dục Mỹ gồm Donnelly, Giboson và Ivancevich đã nghiên cứu về ĐT, BD công chức mà vấn đề nổi bật là phương pháp xác định nhu cầu của việc ĐT, BD công chức. Các tác giả cho rằng, để có một chương trình ĐT, BD công chức thích hợp cần phải xác định được các mục tiêu: (1) Đáp ứng được nhu cầu nâng cao trình độ của của cá nhân cán bộ, công chức và tổ chức sử dụng công chức; (2) Nội dung ĐT có thể giải quyết và làm rõ những vấn đề khó khăn gặp phải về chuyên môn, nghiệp vụ trong thực thi chức trách, nhiệm vụ của mình; (3) ĐT, BD phải dựa trên những cơ sở chuyên môn, nghiệp vụ được ĐT, những nguyên lý cơ bản thiết nhất cho người học mà người học có khả năng tiếp thu ở mức độ tốt nhất; (4) Phải đánh giá được kết quả của chương trình ĐT, BD và kết quả học tập của công chức sau mỗi khóa BD, có thể theo giai đoạn, mục đích hay tiến độ mà chương trình ĐT đặt ra [92].
Năm 1996, trong công trình nghiên cứu về quản lý quá trình BD, Amstrong đã đưa ra quan điểm coi quá trình ĐT, BD là kế hoạch xác định, những tác động có mục tiêu học tập để nâng cao khả năng làm việc, kỹ năng hoạt động của công chức trong thực tiễn. Ông cho rằng, quá trình ĐT, BD cán bộ, công chức gồm 4 công đoạn:
(1) Xây dựng kế hoạch chương trình BD.
Công đoạn này phải xác định được: i) Đối tượng được BD với các yêu cầu, tiêu chuẩn về trách nhiệm, về năng lực, về bằng cấp…; ii) Chủ thể BD là tổ chức quản lý nhân lực hay cơ sở ĐT, BD công chức theo chức năng được giao; iii) Nội dung chương trình BD với các học phần, môn học, yêu cầu kiến thức BD cụ thể theo nhu cầu BD của học viên, của tổ chức sử dụng công chức; iv) Phương pháp tổ
chức BD đảm bảo chất lượng, hiệu quả nhất; v) Điều kiện và phương tiện phục vụ cho BD như cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí, môi trường dạy và học,…
(2) Xác định địa điểm và phân công người phụ trách hoạt động BD.
Địa điểm BD được chọn phải thuận lợi, phù hợp với cả đối tượng và chủ thể BD, đảm bảo người dạy và người học đi lại, hoặc sinh hoạt trong thời gian BD được dễ dàng.
Phân công cán bộ quản lý, giáo viên thực hiện chương trình BD có năng lực chuyên môn phù hợp với nội dung và đối tượng được BD, về chuyên môn, nghiệp vụ, về các yếu tố khác như tâm lý, phong cách quan lý và giảng dạy…
(3) Triển khai thực hiện kế hoạch BD.
Thực hiện kế hoạch bồi dưỡng phải đảm bảo: i) Theo đúng chương trình đã xây dựng, đúng tiến độ chung, lộ trình của từng học phần, môn học, thời gian học của học viên; ii) Quản lý được học viên trong suốt quá trình BD, kể cả trường hợp cơ sở ĐT không tổ chức học viên ở tập trung; iii) Đảm bảo chất lượng từng môn học và chất lượng của cả quá trình học tập của học viên.
(4) Đánh giá và hiệu chỉnh kết quả thực hiện kế hoạch BD.
Thực hiện đánh giá 3 nội dung chính: i) Đánh giá chính xác, khách quan, sát thực kết quả học tập của học viên; ii) Đánh giá kết quả giảng dạy của giáo viên để rút kinh nghiệm, hiệu chỉnh về nội dung và lộ trình ĐT về sau; iii) Đánh giá tình hình sử dụng kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị.
Nghiên cứu của Amstrong đang được sử dụng nhiều trong công tác quản lý ĐT, BD của nhiều nước trên thế giới. Mặc dù ông chưa đề cập đến một mô hình nào cụ thể, nhưng các tiêu chuẩn nghề nghiệp đã mô tả được những yêu cầu cần đạt được của hoạt động BD cũng như những yêu cầu của xã hội đối với cán bộ công chức [116].
Sherry Fox [117] với hướng tiếp cận năng lực cho rằng cần sử dụng tiếp cận quản lí năng lực trong công tác ĐT, BD công chức. Ông đưa ra một quá trình ĐT, BD cần có các bước cụ thể như sau:
(1) Phân tích thiếu hụt kĩ năng và nhu cầu BD:
Cơ sở để BD là việc đánh giá được nhu cầu BD công chức trước yêu cầu về chuyên môn, nhiệm vụ, chức trách được giao. Từ đó, phát hiện những thiếu hụt về
kỹ năng hoạt động thực tiễn của công chức hay của tổ chức. Phải xác định nhu cầu BD công chức theo từng lĩnh vực chuyên môn, đặc biệt về kỹ năng cần có của công chức trong từng giai đoạn, từng thời điểm nhất định.
(2) Xây dựng khung và chương trình BD:
Khung BD được xây dựng dựa theo các căn cứ: Nhu cầu BD, quy định của nhà nước tiêu chuẩn nghề nghiệp công chức, kỹ năng cần BD trong các lĩnh vực xã hội… Từ đó, tiến hành xây dựng chương trình ĐT, BD phù hợp với mục tiêu ĐT, BD...
(3) Tổ chức thực hiện hoạt động BD: Thực hiện các công đoạn như các yêu cầu mà Amstrong đã đưa ra ở trên.
(4) Đánh giá năng lực hình thành sau BD so với chuẩn:
Thực hiện đánh giá ở các khía cạnh: i) Đánh giá kết quả học tập của công chức trong mỗi môn học, trong cả quá trình BD; ii) Đánh giá chất lượng, hiệu quả dạy học của giảng viên thông qua chất lượng thực hiện chương trình ĐT, BD; ii) Đánh giá năng lực của công chức được hình thành hoặc tăng thêm so với chuẩn nghề nghiệp, với mục tiêu, yêu cầu của chương trình BD.
(5) Cải tiến chương trình:
Trên cơ sở kết quả đánh giá quá trình ĐT, BD, tiến hành nghiên cứu, xem xét, cải tiến chương trình ĐT, BD cho lần sau để nâng cao chất lượng, hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu BD của công chức và của tổ chức sử dụng cán bộ, công chức. [116].
Xinh Khăm Phom Ma Xay (2003) trong công trình nghiên cứu “Đào tạo, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay” đã làm rõ tình hình đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế và thực trạng công tác ĐT, BD cán bộ của Lào. Ông cũng chỉ ra những thành tựu, những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém, những nguyên nhân của công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ của Lào trong thời gian qua. Từ đó, đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Nhà nước Lào trong thời gian tới. Song, trong nghiên cứu mới chỉ đề cập đến công tác ĐT, BD lý luận chính trị cho cán bộ quản lý kinh tế cấp cao mà chưa đề cấp sâu về ĐT, BD lý luận chính trị, nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở [101].
Khăm Phăn Phôm Mạ Thắt (2005) với nghiên cứu “Công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới”, đã tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt, đặc biệt là đối tượng thuộc diện Trung ương quản lý trong thời kỳ đổi mới, nhất là hoàn cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Tác giả cũng đã phân tích đánh giá thực trạng, nêu ra những vấn đề cấp bách trong việc BD lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của nhà nước Lào. Đồng thời, tác giả cũng đã đề xuất những phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ĐT, BD cho đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới. Song, tác giả mới chỉ tập trung nghiên cứu về ĐT, BD đội ngũ cán bộ cấp cao mà chưa bàn đến đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của Lào [102].
Qua một số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về ĐT, BD cán bộ, công chức cho thấy:
Một là: Đối tượng được bồi dưỡng là đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước với chức trách, nhiệm vụ theo tiêu chí, chức danh cụ thể.
Hai là: Chủ thể bồi dưỡng là các cơ quan, tổ chức của nhà nước, có chức năng, nhiệm vụ ĐT được quy định.
Ba là: Chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức với những nội dung nhằm trang bị, cập nhật cho công chức tri thức mới về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động trong thực tiễn để khắc phục những hạn chế, thiếu hụt năng lực và giải quyết, xử lý tình huống phát sinh mới để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.
Bốn là: Mục tiêu bồi dưỡng được xác định là đáp ứng được nhu cầu nâng cao trình độ mọi mặt của của cá nhân cán bộ, công chức và các đơn vị, tổ chức sử dụng công chức đó.
Từ kết quả nghiên cứu đó, có thể tiếp thu, vận dụng vào hoạt động ĐT, BD cán bộ, công chức trong điều kiện ở nước ta với những giá trị như sau:
- Mục tiêu BD cán bộ phải hướng đến trang bị, bổ sung thêm cho cán bộ, công chức những tri thức mới, tinh túy nhất của nhân loại về mọi mặt; những kinh nghiệm quý giá của các nước về quản lý cán bộ, nhất là phương thức ĐT, BD cán bộ phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước ta. Cần nắm sát nhu cầu của từng đối tượng BD để trang bị những kỹ năng thực tiễn mà người học cần hoặc còn thiếu
theo yêu cầu công việc cụ thể của mình, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức sử dụng công chức trong từng thời kỳ và phù hợp với thực tiễn của địa phương, cơ sở.
- Nội dung BD cần thực hiện theo mô hình “xoáy trôn ốc” từ cơ sở; kiến thức từ cơ bản đến nâng cao, có hàm lượng nghiên cứu cao dần đáp ứng vai trò tham mưu của đội ngũ cán bộ, công chức nước ta; coi trọng trang bị cập nhật những kiến thức mới nhằm thích ứng với sự phát triển không ngừng của thực tiễn cuộc sống.
Phải coi trọng BD kỹ năng hoạt động thực tiễn, đặc biệt khả năng tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm để tham mưu trong lĩnh vực chuyên môn mà cán bộ đảm nhiệm. Cần thực hiện phương châm ĐT, BD là: Lý thuyết được chú trọng tới mức cần thiết nhưng thực hành được chú trọng tối đa đến mức có thể.
- Hoạt động BD cán bộ, công chức nhà nước nói chung phải được thực hiện bởi các cơ quan quản lý nhà nước và sự phối hợp chỉ đạo của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương.
- Hình thức ĐT, BD cần thường xuyên đổi mới phù hợp điều kiện cụ thể của từng địa phương, phù hợp trình độ của đối tượng BD; cần đáp ứng được với những thay đổi thường xuyên của vị trí công tác của cán bộ, sự phát triển của kinh tế - xã hội, sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, công nghệ trên thế giới.
- Cần đưa hoạt động ĐT, BD vào quy trình, quy phạm và tiêu chuẩn quy định. Phải tổ chức hệ thống ĐT, BD thống nhất xuyên suốt từ cấp Trung ương đến cơ sở; phải thực hiện thành một hệ thống đồng bộ, linh hoạt phù hợp điều kiện và yêu cầu ĐT, BD cán bộ, công chức hiện nay.
1.1.2. Một số kinh nghiệm quản lý đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức trên thế giới
Các quốc gia trên thế giới đều ý thức được vai trò của người thực thi công vụ là đội ngũ công chức, một lực lượng quan trọng, tham mưu hoạch định chính sách cho xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ của công chức, viên chức thì công tác ĐT, BD là một vấn đề quan trọng được và đặt ở mức độ ưu tiên hàng đầu. Có thể nghiên cứu kinh nghiệm của các chuyên gia, các nhà khoa học về quản lý ĐT, BD công chức của một số nước tiên tiên trên thế giới để tiếp cận hướng nghiên cứu BD cán bộ, công chức tại Việt Nam nói chung, cán bộ MTTQ cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Tại Hoa Kỳ, người ta coi khả năng lãnh đạo, điều hành công việc của cán bộ, công chức là cao nhất. Vì vậy, trong nội dung các chương trình ĐT được tập trung vào các kỹ năng lãnh đạo cho công chức, bao gồm: kỹ năng phân tích, kỹ năng quản lý và kỹ năng cố vấn. Khi ĐT, mỗi kỹ năng được thiết kế tương đương một khóa học và cho rằng mỗi công chức cần lãnh đạo được chính mình, công việc của mình và đều có thể trở thành người lãnh đạo trong tương lai. Chương trình ĐT cho cán bộ quản lý cao cấp có thời gian 7 tuần, Chương trình quản lý và lãnh đạo thực thi là 3 tuần và một loạt các chương trình ĐT cho công chức từ bậc 16 trở lên. Có chương trình ĐT học tập đặc biệt (cho Bộ trưởng, Thứ trưởng…); chương trình ĐT chức năng đặc biệt (khóa ĐT xây dựng nhóm, tổ công tác, khóa ĐT về Lập kế hoạch và đánh giá…).
Các phương pháp phổ biến đang áp dụng là gắn kết mô hình lý thuyết với việc nghiên cứu phân tích. Các hình thức ĐT chủ yếu dành cho công chức Hoa Kỳ bao gồm ĐT trong nội bộ đơn vị (Bộ, Cục), ĐT tại Bộ, cục khác của liên bang, ĐT trong các trường cao đẳng chuyên ngành thuộc Bộ và ĐT qua thực hành. Các hình thức ĐT khác nhau hình thành lên các cơ sở ĐT khác nhau, và các cơ sở ĐT này cùng hợp thành một mạng lưới ĐT. Ngoài hệ thống mạng lưới ĐT trong công việc này, các công chức mới tuyển dụng tại Hoa Kỳ còn được ĐT thông qua một kênh khác, đó là ĐT trong trường đại học nhằm giải quyết theo vấn đề để kích thích công chức phát huy tối đa sở trường và khả năng sáng tạo.
Phương pháp ĐT ở Hoa Kỳ khá phong phú cùng với việc sử dụng các thiết bị kỹ thuật giúp người học có thể thấy trước vấn đề (dự kiến được những tình huống của tương lai) thay vì chỉ biết những gì đã có. Ngoài việc sử dụng các phương pháp để nâng cao năng lực tư duy nhất là tư duy phán đoán, các trường cũng chú trọng đến việc nâng cao các năng lực khác như khả năng truyền đạt, tạo cảm hứng công việc,... [43].
Tại Cộng hòa Liên bang Đức, công chức được thi tuyển phải có thời gian tập sự và ĐT dài hạn. Sau khi được bổ nhiệm làm công chức thì hầu như ít có ĐT dài hạn, chỉ có BD thường xuyên nhằm nâng cao năng lực thực hiện công việc. Các lớp BD không học lý thuyết mà tập trung vào thực hành với những bài tập thực tế, các tình huống với kịch bản sát thực tế.
Công tác BD kỹ năng làm việc cho công chức Đức được phân cấp cho các cơ sở ĐT. BD kỹ năng cho cán bộ lãnh đạo do Học viện ĐT thuộc Liên đoàn công chức liên bang đảm nhận; BD kỹ năng cho cán bộ quản lý cấp phòng do các trường của Liên bang thực hiện. Ngoài những chương trình chung của các cơ sở ĐT, BD, còn có các chương trình BD nghiệp vụ do các cơ quan xây dựng và thực hiện nhằm nâng cao năng lực thực hiện cho đội ngũ nhân viên của cơ quan mình.
Công tác ĐT, BD ở Đức phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, gắn với đòi hỏi của thực tiễn, các kiến thức luôn được đổi mới, cập nhật các thông tin của đời sống xã hội và chủ yếu do các cơ sở ĐT tự quyết định, tuy nhiên nội dung luôn có những phần bắt buộc do Chính phủ quy định. ĐT, BD theo chức danh tại Đức được chính phủ đặc biệt coi trọng. Hàng năm, nhiều khóa học BD được mở ra với các nội dung, chương trình xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, thích ứng với từng cương vị của người học, đáp ứng đòi hỏi cả thực tiễn quản lý, trong đó các kỹ năng quản lý, hoạch định chính sách, soạn thảo và ban hành văn bản, xử lý các tình huống… luôn chiếm tỷ trọng lớn trong nội dung khóa học [43].
Tại Cộng hòa Pháp, vai trò của đội ngũ công chức luôn đánh giá cao, coi đó là lực lượng có ý nghĩa quyết định trong xây dựng và quản lý một nhà nước pháp quyền hiện đại, hướng tới mục tiêu phục vụ cộng đồng dân cư và xã hội với hiệu quả cao nhất, chất lượng tốt nhất. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng ĐT, BD công chức trở thành một trong những điều kiện có tính quyết định để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý của nền hành chính Pháp.
Một trong những cơ sở để xây dựng kế hoạch ĐT, BD công chức là cuộc gặp gỡ, thảo luận giữa công chức và người lãnh đạo trực tiếp về công việc. Xuất phát từ nhu cầu của cá nhân và của cơ quan, bộ phận nhân sự tổng hợp kế hoạch ĐT, BD chung cho cơ quan trên cơ sở ngân sách cho phép. Chương trình ĐT chủ yếu đến 90% là dựa trên các tình huống thực tế, ít lý thuyết. Giáo viên là những công chức của các bộ được mời đến giảng dạy và đưa ra những tình huống cho học viên xử lý. Có ít nhất 50% thời gian khoá học là học thực tế tại các cơ quan hành chính. Để thực hiện chương trình ĐT công chức đạt kết quả tốt, giáo viên tiến hành các bước đánh giá khóa học thông qua việc đánh giá từng đối tượng học viên để biết kết quả đạt được đến đâu và cần điều chỉnh những gì trong quá trình giảng dạy [67].