Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh - 4


Vương quốc Anh là quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng chế độ công chức. Thời gian trung bình cho mỗi công chức hàng năm đi ĐT, BD là từ 5 đến 10 ngày, với công chức trẻ thì thời gian ĐT, BD dài hơn, có thể trên 10 ngày, còn với công chức cao cấp thì ít hơn. Quyết định thời gian ĐT, BD là do bộ phận nhân sự tiến hành trên cơ sở nhu cầu và ngân sách ĐT. Ngân sách cho ĐT là khoảng 2-5% ngân sách chi thường xuyên của mỗi cơ quan. Công tác ĐT, BD có thể được thực hiện trong cơ quan hoặc ngoài cơ quan tùy theo chương trình học. Để xác định kế hoạch ĐT, BD cho công chức, hàng năm giữa công chức và lãnh đạo trực tiếp thường có cuộc trao đổi về công việc và khả năng làm việc, hướng phát triển đối với công chức. Những đề nghị về ĐT, BD cũng được nêu trong buổi làm việc này và trên cơ sở đó công chức sẽ được thu xếp đi ĐT, BD theo đúng những nội dung mà công chức cũng như cơ quan đang cần cho công việc [43].

Xinh - ga - po là quốc gia thành phố, có diện tích và dân số tương đối nhỏ tại Đông Nam Á, nhưng nền hành chính và công vụ của đất nước này đã có những bước phát triển mạnh mẽ, được xem là một nhân tố chủ đạo làm nên sự thành công của một trong “bốn con rồng châu Á”. Để có được chất lượng phục vụ hoàn hảo của các cơ quan công quyền, Xinh-ga-po quan niệm công chức là chìa khóa thành công nên luôn coi trọng yếu tố con người, trọng dụng nhân tài.

Việc ĐT, BD công chức theo hướng mỗi người đều cần được phát triển tài năng riêng; tạo thói quen học tập suốt đời, liên tục học hỏi để mỗi công chức đều có đầy đủ phẩm chất, năng lực, trình độ phục vụ tốt cho nền công vụ. Xinh-ga-po xây dựng chiến lược cán bộ thể hiện bằng kế hoạch ĐT ngắn hạn, dài hạn, ĐT kế nhiệm, bài bản, từ xa. Thời gian ĐT tối thiểu bắt buộc là 100 giờ trong một năm đối với mỗi công chức. Trong đó 60% nội dung ĐT về chuyên môn, 40% nội dung ĐT liên quan đến phát triển với nhiều khóa học khác nhau dành cho các đối tượng. Hằng năm, Xinh-ga-po dành 4% ngân sách cho ĐT, BD cán bộ, công chức.

Các cơ sở ĐT ở Xinh-ga-po gồm Học viện Công vụ và Viện Quản lý Xinh- ga-po và Trường Chính sách công Lý Quang Diệu thuộc Đại học Quốc gia Xinh-ga- po. Học viện Công vụ (CSC) được thành lập năm 1996, hiện nay bao gồm: Viện Phát triển chính sách, Viện Hành chính công và Quản lý. Ngoài ra, Học viện còn thành lập thêm Tổ chức tư vấn công vụ làm công tác tư vấn về chính sách và thực thi công tác ĐT, tư vấn về các chương trình giảng dạy. Đây là đầu mối liên hệ giữa


Xinh-ga-po và các nước trong việc trao đổi kinh nghiệm và phương thức cải cách khu vực công [67].

Trung Quốc đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ chính trị, phẩm chất, năng lực chuyên môn cho đội ngũ công chức nhằm xây dựng một đội ngũ công chức chuyên nghiệp và có chất lượng cao, đây là một phần trong chiến lược thực hiện và đẩy nhanh quá trình cải cách hệ thống công vụ. Xây dựng một đội ngũ cán bộ đông đảo có đủ đức, tài và vững vàng bản lĩnh cách mạng là nhiệm vụ vừa nặng nề, vừa cấp bách đặt ra cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Trung quốc đặc biệt chú trọng công tác ĐT cán bộ tại các trường Đảng trên phạm vi cả nước.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định nhiệm vụ chủ yếu nhất của hệ thống trường Đảng là phải trang bị những kiến mới cập nhật nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ các cấp. Do đó, nội dung giáo dục của các trường Đảng phải được xây dựng và thực hiện có hệ thống, bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ và thực tiễn của các địa phương, ngành theo hình thức “xoáy ốc” từ cơ sở, cơ bản đến nâng cao trên cơ bản. Có 4 nội dung ĐT mà bất kỳ trường Đảng ở cấp nào cũng phải thực hiện, tuy nhiên ở mỗi cấp có sự tăng giảm dung lượng khác nhau, đó là: “Cơ sở lý luận”, “thế giới quan”, “Tư duy chiến lược” và “tu dưỡng lý luận chính trị ”, “ BD công tác nghiệp vụ”.

Nội dung chương trình ĐT chủ yếu được xây dựng dựa vào vị trí của từng công chức để ĐT, BD. Thông thường một khóa học của công chức bao gồm khóa học cơ bản và khóa học chuyên môn, gọi là mô hình “cơ bản + chuyên môn”. Trong đó, khóa học cơ bản đi sâu vào các nội dung như: về học thuyết chính trị, về luật hành chính, về hành chính công, về phát triển kinh tế - xã hội...; khóa học chuyên môn thường được thiết kế dựa vào các nhu cầu khác nhau của công chức ở các nhóm và các cấp khác nhau, thể hiện tính chuyên môn trong ĐT cho các cấp và các loại công chức khác nhau. Cấu trúc và thời lượng bài học được sắp xếp hài hòa theo yêu cầu giữa bài giảng trên lớp với thảo luận, trao đổi và các hoạt động khác liên quan nhiệm vụ của công chức.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.

Hàn Quốc đặc biệt chú trọng ĐT, BD nguồn nhân lực, nhất là những người tài, khuyến khích và tạo điều kiện để nguồn nhân lực tài năng phát triển. Chương trình ĐT khác nhau cho những đối tượng công chức khác nhau: Công chức mới được tuyển dụng phải tham gia một số chương trình ĐT bắt buộc. Công chức sắp


Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tỉnh Bắc Ninh - 4

được thăng chức phải tham gia 3 chương trình học tại hệ thống các trường ĐT, BD cán bộ, công chức thì mới được xem xét nâng bậc. Công chức trẻ có triển vọng (dưới 40 tuổi) bắt buộc phải qua các khóa ĐT tập trung theo quy định.

Về cơ sở ĐT, ngoài các trung tâm, viện nghiên cứu của Nhà nước, hầu như các doanh nghiệp đều có các viện, trung tâm nghiên cứu về khoa học, công nghệ theo chuyên môn sâu của ngành, trong đó tập hợp được một số lớn các chuyên gia, tiến sĩ đầu ngành.

Ở Nhật Bản, đội ngũ giảng viên trong các cơ sở ĐT, BD công chức của Nhật Bản là các chuyên gia, học giả, nhà khoa học và một số công chức nhiều kinh nghiệp của Chính phủ. Về đội ngũ học viên, do chính sách thi tuyển công chức mở, trao cơ hội cho rộng rãi nhiều đối tượng nên người tham gia các khóa ĐT ban đầu có nền tảng kiến thức rất đa dạng. Kinh phí ĐT chủ yếu do Chính phủ chi trả đối với công chức quốc gia hoặc do chính quyền địa phương chi trả đối với công chức địa phương theo hướng tiết kiệm và hiệu quả.

Nhật Bản đã xây dựng và phát triển khá thành công nền kinh tế tri thức và một xã hội tri thức, luôn lấy tri thức làm nền tảng phát triển con người và đất nước. Đội ngũ công chức Nhật Bản luôn được đánh giá cao về sự chuyên nghiệp, mẫn cán và kỷ luật. Và chính khâu ĐT ban đầu ngay từ khi công chức mới trúng tuyển đã đóng góp một phần không nhỏ vào thành tựu này.

Ở Đài Loan, có thể nói công tác ĐT, BD công chức trẻ của Đài Loan khá linh hoạt song vẫn theo đúng nguyên tắc: công khai, công bằng, cạnh tranh, chọn được người giỏi; lý luận gắn với thực tế, học tập gắn liền với ứng dụng, coi trọng hiệu quả thiết thực; không BD đủ thì không đề bạt và phương châm “học, học nữa, học mãi”. Đặc biệt, Đài Loan rất chú trọng rèn luyện năng lực thực hành của công chức trong thực tiễn, coi đây là một trong ba tố chất chủ yếu tạo nên phẩm chất công chức, đó là trình độ lý luận chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn và đức tính tự trọng, tự lập.

Các cơ sở ĐT của Đài Loan có trách nhiệm tổ chức các khóa ĐT, BD ban đầu cho công chức mới được tuyển dụng. Sau khi trúng tuyển, tất cả các công chức mới ở các cấp độ khác nhau bắt buộc phải tham gia khóa ĐT phù hợp với ngạch và loại công chức được bổ nhiệm. Tỷ lệ của các khóa học thường được BD chủ yếu là chuyên môn, kiến thức cơ bản là thứ yếu. Cấu trúc và thời lượng bài học được sắp xếp bài giảng kết hợp với thảo luận trao đổi và các nội dung khác.


Qua nghiên cứu ở trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm của một số nước trong công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ, công chức như sau:

(1) Các quốc gia được nghiên cứu nêu trên đều có mạng lưới cơ sở ĐT bố trí từ Trung ương đến địa phương. Chương trình ĐT, phạm vi và đối tượng ĐT của các cơ sở ĐT không chồng lấn nhau mà bổ sung cho nhau đảm bảo tính đa dạng, phong phú, dân chủ, tạo điều kiện tiếp cận tối đa cho người học với mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền hành chính nhà nước.

(2) Các cơ sở ĐT, BD từ Trung ương đến địa phương phải đảm bảo nguyên tắc thống nhất, không chồng chéo, bổ sung và hỗ trợ kiến thức, kỹ năng đầy đủ, toàn diện phù hợp với từng loại đối tượng công chức, viên chức.

(3) Cần thay đổi phương pháp và hình thức ĐT theo hướng tăng cường tính chủ động cho công chức, viên chức để họ tham gia học tập và phát huy được các thế mạnh của mình.

(4) Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên nói chung, giảng viên cơ hữu nói riêng để phục vụ quá trình ĐT, BD; có thể sử dụng những cán bộ, công chức có năng lực trình độ, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, kỹ năng xử lý các tình huống trong thực tế quản lý.

(5) Có chính sách, chế độ hợp lý để tăng cường dân chủ và bình đẳng trong ĐT và BD đối với các công chức, viên chức, đảm bảo các tiêu chí tuyển dụng của một số ngành nhất định để tránh bỏ sót người tài.

1.1.3. Các nghiên cứu ở Việt Nam

Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Đảng, công tác ĐT, BD cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đã được nhiều cơ quan từ Trung ương đến địa phương quan tâm triển khai thực hiện. Các nhà khoa học đã tiếp cận nghiên cứu theo nhiều góc độ khác nhau về mục đích, phạm vi bồi dưỡng và yêu cầu về trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp. Đó là các đề tài, đề án khoa học, luận văn, luận án, sách, tài liệu hội thảo và các bài đăng trên các tạp chí trong và ngoài nước. Đây thực sự là nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận án của mình.

Trong cuốn “Hồ Chí Minh với công tác giáo dục lý luận chính trị” (2007), Hồ Chí Minh đã xác định rõ nội dung và nhiệm vụ học tập lý luận chính trị của cán bộ và những vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị. Đặc biệt, Người nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng Đảng vững mạnh về chính


trị, tư tưởng, tổ chức; việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của người đảng viên trên cơ sở lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin để soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam [27].

Vũ Ngọc Am (2014) trong cuốn “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở”, đã trình bày sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhằm nâng cao tư tưởng chính trị, tinh thần tự giác cách mạng, giữ gìn phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Tác giả cũng đưa ra yêu cầu đổi mới, tiến trình cơ bản, hợp lý trong quá trình đổi mới để nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên nhằm chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Nhưng tác giả chưa đề cập đến bồi dưỡng nghiệp vụ và cụ thể vê đối tượng BD mà luận án đặt ra là cán bộ, công chức của Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở [2].

Phạm Huy Kỳ (2010) trong cuốn “Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị”, đã phân tích rõ một số vấn đề cơ bản về lý luận và phương pháp nghiên cứu, công tác giáo dục lý luận chính trị tại các đảng bộ địa phương, đặc biệt là xã, phường, thị trấn. Tác giả đã tập trung trình bày sâu các nội dung về lý luận và phương pháp giáo dục lý luận chính trị, coi đây là nội dung hoạt động chủ yếu trong hệ thống giáo dục lý luận chính trị của Đảng ta hiện nay. Lấy nền tảng lý luận là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy phương pháp luận duy vật biện chứng để lựa chọn, đổi mới phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên phù hợp, hiệu quả trong điều kiện cụ thể của địa phương [45].

Trần Minh Tuấn (2011) với Đề tài khoa học cấp Bộ: “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh” đã tập trung giải quyết các vấn đề cốt lõi là: (1) Luận giải yêu cầu cấp thiết về ĐT, BD cán bộ quản lý, quản lý theo chức danh cán bộ tại Học viện từ 2005 đến nay - thực trạng và những vấn đề đặt ra hiện nay; (2) Hướng tiếp cận về quan điểm về nâng cao hiệu quả ĐT, BD cán bộ quản lý Học viện theo chức danh quản lý; (3) Những biện pháp nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và quản lý theo chức danh tại Học viện [68].

Hoàng Chí Bảo (2006) đã trình bày trong tác phẩm “Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh” đa nêu ra ba nội dung cơ bản để nghiên cứu và học tập theo tư tưởng, tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là: (1) Các phương pháp tuyên truyền và xuất xứ, nguồn gốc của phương pháp tuyên truyền của Hồ Chí Minh; (2) Những đặc thù cơ bản trong phương pháp tuyên truyền cách mạng của


Chủ tịch Hồ Chí Minh; (3) Vận dụng phương pháp tuyên truyền cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đổi mới phương pháp tuyên truyền của cán bộ làm công tác tư tưởng trong thời kỳ mới. Đây là những nghiên cứu sâu sắc, có ý nghĩa rất lớn đối với cán bộ làm công tác tuyên giáo, những người nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như công tác BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ các cấp [5].

Nguyễn Đình Cấp (2010) với bài “Di sản Hồ Chí Minh với sự nghiệp đào tạo cán bộ lý luận chính trị và truyền thông trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế” tại Hội thảo khoa học quốc gia năm 2010, đã đưa ra quan điểm giáo dục, BD lý luận chính trị là phải đảm bảo tính thiết thực cao, sự chu đáo để người học nghe và hiểu được một cách sâu sắc để từ nhận thức chuyển biến thành hành động hiệu quả, để lý luận đi vào thực tiễn một cách nhanh nhất. Để đảm bảo được yêu cầu đó phải luôn đổi mới phương pháp truyền đạt, lựa chọn thực hiện phương pháp giáo dục có tính xuyên suốt với ý nghĩa chủ đạo là giải quyết mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành [36].

Nguyễn Đình Trãi (2001) với “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường Chính trị tỉnh”, đã nghiên cứu ở góc độ năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên các Trường Chính trị của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tác giả cho rằng: Năng lực tư duy là yếu tố quan trọng đảm bảo cho giảng viên tiếp tục nghiên cứu sâu, nhận thức thấu đáo những nội dung của qui luật nhận thức,... Đồng thời cũng là điều kiện để người giảng viên nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới phương pháp giảng dạy tối ưu nhất; là điều kiện để người giảng viên thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận cũng như trình độ tư duy lý luận, phương pháp tư duy khoa học; là cơ sở cho việc rèn luyện các phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong của nhà sư phạm. Đồng thời, tác giả đã đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh như: (1) Học tập, trau dồi phương pháp tư duy biện chứng duy vật; (2) Từng bước chuẩn hóa đội ngũ giảng viên theo hướng kết hợp hài hòa giữa năng lực, trình độ chuyên môn với phẩm chất đạo đức cách mạng;

(3) Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với giảng viên trường chính trị tỉnh. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến các nguyên tắc cơ bản trong việc BD nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ giảng viên các Trường Chính trị cấp tỉnh; ĐT, BD theo hướng tiếp cận năng lực cho cán bộ, giáo viên về tư duy khoa học, phương pháp biện chứng trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm


nền tảng. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ đề cập đến đối tượng BD là giáo viên các trường chính trị cấp tỉnh mà chưa đề cấp đối tượng BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở [65].

Vũ Thanh Bình (2012) với Luận án: “Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên Lý luận Chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay” đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng. Tác giả đã phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, chỉ ra những hạn chế, bất cập về chuyên môn, những nguyên nhân chủ quan, khách quan về công tác BD lý luận chính trị, nghiệp vụ cho giáo viên; đồng thời đề xuất một số quan điểm, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức này [6].

Bùi Đức Lại (2012) với bài “Vì sao công tác xây dựng Đảng hiệu quả thấp?” đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số 5/2012, đã chỉ ra các nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả của công tác xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay mà một trong những nguyên nhân lớn đó là công tác tư tưởng chính trị, công tác ĐT, BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Từ đó, tác giả đưa ra một số biện pháp xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay với việc lấy công tác giáo dục tư tưởng chính trị làm nhiệm vụ quan trọng hàng đầu [46].

Lê Hanh Thông (2003) với nghiên cứu “Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ”, đã đề cập vấn đề giáo dục, BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và cấp cơ sở nói chung. Tác giả đã tiến hành khảo sát tình hình BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã, đánh giá thực trạng nhu cầu ĐT, BD, vai trò BD lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở. Từ đó, đề xuất phương hướng và các biện pháp giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh khu vực Nam Bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hoàn cảnh hiện nay; đó là: (1). Nâng cao lý luận chính trị giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở nâng cao năng lực tư duy khoa học, chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp cán bộ có thể hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; (2) Trên cơ sở được nâng cao về trình độ lý luận chính trị, giúp cho cán bộ nhận thức đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng, mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội của Nhà nước, để vận dụng một cách sáng tạo, hiệu quả vào điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương mình; (3) Tăng cường giáo dục lý luận chính trị là yêu cầu quan trọng nhằm giữ


vững bản chất giai cấp công nhân, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn. Tác giả cũng cho rằng: Để đổi mới phương thức BD lý luận chính trị thì phải gắn liền với thực tiễn, coi trọng tự đào tạo, lấy tự học làm chính, kết hợp tối ưu hóa quá trình dạy và học, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường chính trị tỉnh, từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập. Tuy đã đề cập đến công tác BD LLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở nhưng vẫn chưa nghiên cứu sâu về ĐT, BD cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở [70].

Phạm Công Khâm (2000) với “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay” đã làm rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và công tác cán bộ cấp xã. Tác giả đã đánh giá thực trạng, kinh nghiệm và những vấn đề đang đặt ra; xác định rõ mục tiêu, quan điểm và đưa ra một hệ thống biện pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Trong đó, tác giả đã đặt ra vấn đề BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ở địa phương đồng bằng sông Cửu Long [44].

Trần Hậu Thành (2004) với Đề tài khoa học cấp Bộ: “Nhu cầu ĐT, BD lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay’’ đã khảo sát thống kê được nhu cầu BD cán bộ cấp cơ sở; đưa ra các biện pháp BD có chất lượng, hiệu quả, phù hợp tình hình kinh tế- xã hội của chúng ta hiện nay. Đề tài cũng đã đi sâu tìm hiểu, phân tích một cách khoa học động lực, vai trò, vị trí của công tác ĐT, BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở qua kết quả phân tích, đánh giá thực trạng BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ này ở các địa phương trong cả nước. Tuy nhiên, đề tài mới đề cập đến bồi dưỡng LLCT mà chưa nghiên cứu về ĐT, BD nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở [69].

Ngoài ra, còn nhiều tác giả có công trình nghiên cứu về giáo dục, ĐT, BD lý luận chính trị cho cán bộ, công chức nói chung, cán bộ cơ sở nói riêng. Cụ thể như: Nguyễn Thái Sơn (2001) với “Đổi mới công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ chủ chốt” [64]; Ngô Ngọc Thắng (2004) với “Đào tạo, BD lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong thời kỳ đổi mới”; Lương Cường (2012) với “Tăng cường giáo dục, nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực của đội ngũ cán bộ trước yêu cầu xây dựng

Xem tất cả 190 trang.

Ngày đăng: 21/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí