giữa đạo đức với đạo đức y học, từ đó đưa ra những yêu cầu và phương pháp giáo dục, rèn luyện đạo đức cho người làm công tác y tế [19].
Năm 2012, Hội Điều dưỡng Việt Nam đã công bố “Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của ĐDV”. Nội dung quy định: “Bảo đảm an toàn cho người bệnh; Tôn trọng người bệnh và người nhà người bệnh; Thân thiện với người bệnh và người nhà người bệnh; Trung thực trong khi hành nghề; Duy trì và nâng cao năng lực hành nghề; Tự tôn nghề nghiệp; Thật thà đoàn kết với đồng nghiệp; Cam kết với cộng đồng và xã hội” [21].
Dưới góc độ về QLGD, Luận án tiến sĩ:“Xây dựng mô hình quản lý công tác giáo dục đạo đức cho SV các trường ĐHSP trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hoàng Anh đã nghiên cứu lý luận, thực trạng về đạo đức, GD đạo đức cũng như quản lý công tác GD đạo đức để từ đó đề xuất mô hình quản lý và các biện pháp triển khai mô hình quản lý công tác GD đạo đức cho SV sư phạm trong các trường đại học sư phạm [2].
Nghiên cứu chuyên sâu về nội dung QLGD đạo đức nghề nghiệp cho SV tác giả Nguyễn Thanh Phú với Luận án tiến sĩ “QLGD đạo đức nghề nghiệp cho SV trường cao đẳng sư phạm miền Đông Nam Bộ” đã làm rõ khái niệm đạo đức, đạo đức phạm và vai trò của QLGD đạo đức nghề nghiệp cho SV trong các trường cao đẳng sư phạm đồng thời đánh giá thực trạng về QLGD đạo đức và các yếu tố ảnh hưởng tới việc QLGD đạo đức nghề nghiệp cho SV. Từ đó, đề xuất một số biện pháp QLGD đạo đức nghề nghiệp cho SV các trường cao đẳng sư phạm [36].
Nghiên cứu dưới góc độ GD đạo đức nghề nghiệp, tác giả Nguyễn Đức Hinh và cộng sự biên soạn cuốn “Đạo đức y học” [14] đưa vào chương trình giảng dạy cho SV y khoa với các nội dung GD về lịch sử của đạo đức và đạo đức y học; lý tưởng đạo đức nghề y thông qua lời thề y học; nguyên lý cơ bản của đạo đức y học; quan hệ chuyên môn giữa điều dưỡng, kỹ thuật viên và người bệnh; quyền của người bệnh; quy tắc đạo đức dành cho cho điều dưỡng; đạo đức trong y học dự phòng và y tế cộng cộng; đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và các văn bản pháp quy liên quan đến đạo đức nghề y. Từ đó, giúp cho SV hình thành đạo đức nghề nghiệp trong quá trình học tập, TTLS và hành nghề sau khi tốt nghiệp.
Tác giả Nguyễn Hiền Lương (2013) với bài báo khoa học “Giáo dục và rèn luyện đạo đức người cán bộ y tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, đã khái quát quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về y đức và khẳng định vai trò của đạo đức đối với nghề y. Theo đó, để hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, người cán bộ, nhân viên y tế phải thường xuyên rèn luyện y đức. Từ đó, có giải pháp thiết thực nâng cao đạo đức nghề y cho SV ngành y. Đặc biệt việc vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, rèn luyện y đức đối với SV và cán bộ y tế luôn trở nên cấp thiết, tiến tới xây dựng một nền y tế hiện đại, theo kịp nền y học thế giới [29].
Tác giả Chu Thị Thanh Vui với bài báo khoa học “Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức và sự vận dụng ở Việt Nam”. Tác giả đã phân tích và chỉ ra quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về y đức, để từ đó vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về y đức, cán bộ y tế trong giai đoạn hiện nay, tập trung các nội dung: Công tác giáo dục y đức phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc khi còn đang trong quá trình đào tạo tại các trường y và trong suốt quá trình hành nghề. Các trường y coi giáo dục y đức là một trong những nhiệm vụ gắn liền với công tác đào tạo, công tác quản lý chuyên môn nghề nghiệp. Đồng thời, đa dạng hóa các hình thức giáo dục y đức cho SV và đổi mới hình thức giáo dục những chuẩn mực y đức của người thầy thuốc. Để từng bước xây dựng và phát triển nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân [48].
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý giáo dục y đức cho sinh viên ngành điều dưỡng trong các trường cao đẳng y tế - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Quản Lý Giáo Dục Y Đức Cho Sinh Viên Ngành Điều Dưỡng Trong Các Trường Cao Đẳng Y Tế
- Quản Lý Giáo Dục Y Đức Cho Sinh Viên Trong Các Cơ Sở Giáo Dục Ngành Y
- Quản Lý Giáo Dục Y Đức Cho Sinh Viên Ngành Điều Dưỡng Trong Các Trường Cao Đẳng Y Tế
- Yêu Cầu Đối Với Nghề Điều Dưỡng Trong Bối Cảnh Hiện Nay
- Hình Thức Giáo Dục Y Đức Cho Sinh Viên Ngành Điều Dưỡng Trong Các Trường Cao Đẳng Y Tế
Xem toàn bộ 264 trang tài liệu này.
Khi nghiên cứu về giáo dục y đức thông qua các môn học y học chuyên ngành, tác giả Nguyễn Quang Phúc và cộng sự với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về “Các giải pháp kết hợp giáo dục y đức thông qua dạy học các môn y học chuyên ngành” [37] đã phân tích, đánh giá và nhận định: Có nhiều hình thức giáo dục y đức cho SV, trong đó, giáo dục y đức thông qua các môn y học chuyên ngành, ngoài việc cung cấp kiến thức, kỹ năng chuyên môn về y học thì còn hình thành thái độ, phẩm chất y đức cho SV. Điều này đã cho thấy, giáo dục y đức được triển khai trong suốt quá trình đào tạo nhân lực y tế. Qua đó, đề tài nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ huy đối với giáo dục y đức trong dạy và học các môn y học chuyên ngành; đổi mới chương trình, nội dung, biện pháp giáo dục y đức; phát huy vai trò, trách nhiệm của GV và tự rèn luyện của SV.
Các tác giả Nguyễn Thị Ái Liên, Vũ Xuân Bảo, Đỗ Như Long (2013) với bài khoa học “Một số biện pháp quản lý công tác giáo dục y đức cho học sinh, SV ở các cơ sở đào tạo y tế” [27]. Các tác giả đã chỉ ra nhiệm vụ của các cơ sở đào tạo y
tế là đào tạo ra những cán bộ y tế vừa có đức, vừa có tài. Do vậy, giáo dục y đức cho HSSV ở các trường y cần quan tâm đến các biện pháp QLGD y đức cho HSSV. Trong đó, các tác giả đã chỉ ra một số biện pháp quan trọng như: Kế hoạch hóa việc quản lý công tác giáo dục y đức cho HSSV; Nâng cao hiệu quả việc tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch công tác giáo dục y đức cho HSSV; Phối hợp chặt chẽ với các cơ sở thực tập trong việc rèn luyện tay nghề, hình thành và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho HSSV; Cải tiến và thực hiện đúng việc đánh giá kết quả rèn luyện của HSSV.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu tiêu biểu trên, ở nước ta còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác đề cập trên nhiều khía cạnh khác nhau về công tác giáo dục y đức và QLGD y đức trong trường đào tạo ngành y. Những công trình này là cuốn sách, dự án, đề tài NCKH các cấp; các bài báo khoa học được đăng trong các tạp chí khoa học chuyên ngành tiêu biểu như: Cuốn sách “Y tế Việt Nam trong quá trình đổi mới” của tác giả Đỗ Nguyên Phương [38]; Tác giả Ngô Gia Hy với cuốn sách Nguồn gốc của y đức: Sự đóng góp của nền y học vào văn hóa Việt Nam [24]; Tác giả Lê Ngọc Trọng viết cuốn sách “Quy định về y đức và tiêu chuẩn phấn đấu”,[43] ; Tác giả Trương Việt Dũng chủ biên “Quản lý y tế “ [18]; Công trình nghiên cứu: GD&ĐT nhân lực y tế - Dự án WHO-HRH-001 [8]; Dự án "Nghiên cứu đánh giá thực trạng đào tạo nhân lực y tế Việt Nam" do tổ chức Chinal Medical Board (CMB) tài trợ, bắt nguồn từ đề án “Đổi mới đào tạo nhân lực y tế” của Bộ Y tế [9] ; Báo cáo khoa học “Thực trạng đào tạo nhân lực y tế tình hình nhân lực điều dưỡng, nhân viên chăm sóc trong nước và xu hướng thế giới”của Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo - Bộ Y tế [13].
Qua nghiên cứu các quan điểm, các công trình nghiên cứu về giáo dục y đức và QLGD y đức cho SV y khoa của các nước trên thế giới và các nghiên cứu, các luận án của các nhà khoa học ở Việt Nam. Cho thấy, những công trình nghiên cứu này dù tiếp cận dưới góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung đều khẳng định vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ của việc giáo dục y đức, QLGD y đức cho SV y khoa và coi đây là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế.
1.1.3. Khái quát các công trình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục nghiên cứu
1.1.3.1. Khái quát các công trình nghiên cứu
Qua nghiên cứu những quan điểm về giáo dục y đức của các tác giả trên thế giới và các công trình nghiên cứu, các luận án trong nước, cho thấy nội dung giáo dục y đức, QLGD y đức cho SV trong các cơ sở đào tạo ngành y là rất cần thiết. Vấn đề giáo dục y đức và QLGD y đức được các nhà quản lý xác định:
1. Các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước đã được các tác giả tiếp cận dưới nhiều góc độ, đề cập tới mọi khía cạnh và phạm vi nghiên cứu khác nhau. Những công trình này đã tập trung đi sâu vào luận bàn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng, nội dung, giải pháp giáo dục y đức cho SV nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo NNL y tế chất lượng, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, chỉ rõ được sự cần thiết của việc giáo dục y đức cho SV, nhất là đối với các trường đào tạo nhóm ngành sức khỏe trong đào tạo NNL chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đất nước.
2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đều khẳng định giáo dục y đức là nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo NNL y tế trực tiếp liên quan đến sức khỏe của con người, thông qua các hoạt động chăm sóc, khám, chữa bệnh cho bệnh nhân. Với tính chất đó, ngày càng xuất hiện nhiều công trình đi sâu vào luận giải những nét đặc thù của nhân lực y tế, chỉ ra các bộ phận cấu thành của nhân lực y tế và những yêu cầu cơ bản đối với nhân lực này, nhất là chỉ ra những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo không chỉ phù hợp với đặc thù của ngành mà còn phù hợp với từng vị trí, nhiệm vụ của từng bộ phận.
3. Trong những năm gần đây, vấn đề giáo dục y đức ngày càng được các quốc gia trên thế giới coi trọng. Trong các công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế giới đã thể hiện rõ nét được sự cần thiết của việc giáo dục y đức trong đào tạo nhân lực y tế cho xã hội. Trên cơ sở đó, khi bàn đến vấn đề này, mỗi tác giả ở từng quốc gia khác nhau đều có những cách nhìn nhận, đánh giá riêng. Tuy nhiên, nhìn chung, các công trình này đều khẳng định việc QLGD y đức là một yêu cầu quan trọng trong công tác quản lý nhà trường. Từ đó, có những đề xuất trong xây dựng các mô hình, biện pháp QLGD y đức riêng biệt, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ của GD&ĐT; đường lối chính trị, phương hướng phát triển của quốc gia mình.
4. Ở nước ta, những công trình nghiên cứu, các luận án bàn về giáo dục y đức và QLGD y đức tuy không nhiều, các công trình này đều khẳng định được giáo dục y đức cho SV là cần thiết để đào tạo NNL y tế đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh; việc giáo dục y đức góp phần nâng cao lượng đào tạo của từng nhà trường cũng như NNL y tế chất lượng cao để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các công trình chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống, cụ thể dưới góc độ QLGD y đức dựa trên chuẩn đạo đức nghề nghiệp và chuẩn năng lực của điều dưỡng trong các trường CĐYT.
5. Để tiếp cận dưới góc độ của khoa học QLGD, trong những năm gần đây, ở nước ta đã xuất hiện công trình của các tác giả khác nhau bàn về giáo dục y đức và nâng cao chất lượng giáo dục y đức cho SV trong các trường CĐYT. Trong các công trình này, các tác giả đều tiếp cận dưới góc độ dạy và học y đức cho SV ngành y; chỉ ra thực trạng nhân lực y tế, nhất là những hạn chế, bất cập về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, từ đó khẳng định việc quản lý QLGD y đức cho SV các trường CĐYT là yêu cầu quan trọng nhất. Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu của khoa học QLGD, có thể thấy, cho đến nay, ở nước ta có rất ít các công trình nghiên cứu bàn về QLGD y đức cho SV các trường CĐYT một cách đầy đủ, có tính hệ thống. Trong đó, chưa có bất kỳ một công trình nào đề cập hoặc nghiên cứu chuyên sâu về QLGD y đức cho SV ngành điều dưỡng trong các trường CĐYT.
6. Mặc dù, các trường CĐYT được thành lập đã lâu và có vị trí, vai trò quan trọng trong đào tạo NNL y tế phục vụ cả nước. Tuy nhiên, trong tất cả các công trình nghiên cứu có liên quan được công bố, việc QLGD y đức các trường CĐYT chỉ được đề cập với tư cách là một nội dung của khía cạnh nhỏ trong các nhiệm vụ nghiên cứu nhất định ở từng đề tài. Chưa có bất kỳ công trình nào chỉ ra được nội dung, yêu cầu QLGD y đức cho SV, những đặc điểm, yêu cầu khác biệt về nội dung QLGD y đức cho SV ngành điều dưỡng trong các trường CĐYT. Do đó, vấn đề này mới chỉ dừng lại ở bước đầu, mà chưa đi vào nghiên cứu, phân tích đảm bảo tính hệ thống, khoa học, chuyên sâu cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
1.1.3.2. Những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục nghiên cứu
Qua tổng quan nhiều công trình khoa học của các tác giả ở trong và ngoài nước nghiên cứu có liên quan đến đề tài giáo dục y đức và QLGD y đức cho SV các trường y khoa nói chung và SV điều dưỡng trong các trường CĐYT nói riêng. Mặc dù, các công trình tiếp cận nghiên cứu và luận giải dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, song các công trình nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu về giáo dục y đức, QLGD y đức cho SV trong các trường y khoa và đã đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về QLGD y đức cho SV ngành điều dưỡng trong các trường CĐYT theo tiếp cận chuẩn đầu ra và chuẩn năng lực nghề điều dưỡng. Vì vậy, đề tài Luận án sẽ tiếp tục giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến QLGD y đức cho SV ngành điều dưỡng trong các trường CĐYT mà các công trình khoa học trước đó chưa đề cập hoặc đề cập chưa đầy đủ.
Luận án“Quản lý giáo dục y đức cho sinh viên ngành điều dưỡng trong các trường cao đẳng y tế” sẽ tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
1. Trên cơ sở các công trình đã được nghiên cứu, Luận án tiếp tục nghiên cứu bổ sung, làm rõ những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò, yêu cầu về phẩm chất đạo đức nghề điều dưỡng, năng lực thực hành của SV điều dưỡng trong các trường CĐYT; Xây dựng các khái niệm về giáo dục y đức, QLGD y đức cho SV điều dưỡng trong các trường CĐYT; khái quát nội dung của giáo dục y đức và QLGD y đức cho SV điều dưỡng, đồng thời chỉ ra những yếu tố tác động đến QLGD y đức cho SV điều dưỡng trong các trường CĐYT trong bối cảnh hiện nay.
2. Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực tiễn về giáo dục y đức và QLGD y đức cho SV điều dưỡng trong các trường CĐYT thông qua điều tra khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của giáo dục y đức và QLGD y đức cho SV điều dưỡng trong các trường CĐYT một cách toàn diện. Từ đó, chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế đối với hoạt động này, đồng thời phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới QLGD y đức cho SV ngành điều dưỡng trong các trường CĐYT.
3. Trên cơ sở định hướng của Bộ tiêu chuẩn đạo đức nghề điều dưỡng và yêu cầu của hội nhập quốc tế về nghề điều dưỡng, Luận án nghiên cứu đề xuất các giải pháp về QLGD y đức cho SV ngành điều dưỡng trong các trường CĐYT một cách hệ thống, toàn diện đảm bảo tính khoa học, phù hợp, khả thi và hiệu quả. Đây được
coi là vấn đề cốt lõi góp phần nâng cao chất lượng đào tạo NNL điều dưỡng trong các trường CĐYT.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý giáo dục
Trước khi bàn về lý luận QLGD, cần phân tích đến khái niệm quản lý. Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Quốc Chí và các cộng sự: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” hay “Quản lý là quá trình tác động có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức” [28].
Tác giả Phạm Viết Vượng đưa ra khái niệm: “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan” [49].
Hoặc có thể hiểu: “Quản lý là quá trình tác động có ý thức, hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong tổ chức và chịu sự tác động qua lại của môi trường” [47].
Quản lý giáo dục xét trên hai phương diện:
Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (hệ thống giáo dục) được hiểu là “những tác động tự giác” (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật) của chủ thể QLGD đến tất cả các khâu, các mắt xích của hệ thống GD nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh... các nguồn lực (nhân lực, cơ sở vật chất và thông tin) để hệ thống GD vận hành đạt được mục tiêu phát triển giáo dục.
Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô (một cơ sở giáo dục) được hiểu là “hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật...) của chủ thể quản lý một cơ sở giáo dục đến ĐNGV, giảng viên, người học và các lực lượng tham gia GD khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đào tạo của cơ sở giáo dục”.
Như vậy, một cách chung nhất có thể xác định: Quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức (có mục đích, có tổ chức) của chủ thể quản lý tới khách thể,
thực hiện các chức năng quản lý nhằm đưa hoạt động GD của hệ thống GD đạt các mục tiêu GD đã xác định.
1.2.2. Y đức và giáo dục y đức
Đạo đức
Đạo đức là một phạm trù được rất nhiều lĩnh vực khoa học nghiên cứu như triết học, đạo đức học, giáo dục học, xã hội học, tâm lý học ... Mỗi lĩnh vực có một cách tiếp cận riêng và kết quả đã tạo ra một hệ thống quan niệm đạo đức rất phong phú và sâu sắc.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Đạo đức là những phép tắc căn cứ vào chế độ kinh tế và chế độ chính trị mà đặt ra để quy định quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội, cốt để bảo vệ chế độ kinh tế, chế độ chính trị”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam:“Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ với toàn xã hội” [46].
Theo tác giả Trần Hậu Kiểm "Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, yêu cầu, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội" [26].
Tác giả Phạm Viết Vượng định nghĩa: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong mối quan hệ của con người với con người” [49].
Chuẩn mực đạo đức là những phẩm chất đạo đức có tính chất chuẩn mực, được nhiều người thừa nhận, được dư luận xác định như một đòi hỏi khách quan, là thước đo cần có của mỗi con người. Những chuẩn mực đạo đức ấy được coi như mục tiêu GD, rèn luyện ở mọi người, nhiều bậc học, cấp học, lứa tuổi, ngành nghề. Đồng thời, chuẩn mực đạo đức đó có giá trị định hướng, chi phối, chế ước quá trình nhận thức, điều chỉnh thái độ, hành vi của mỗi người.
Từ những quan niệm khác nhau về đạo đức ở trên, nhưng tựu chung lại có thể khái quát: Đạo đức là một hệ thống các qui tắc,các chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi, cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội