Trường Trung Học Phổ Thông Trong Hệ Thống Giáo Dục Quốc Dân

Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục”[24,tr34].

Như vậy, quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục nhưng trong một phạm vi xác định cuả một đơn vị giáo dục nền tảng, đó là nhà trường. Vì thế quản lý nhà trường phải vận dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.

Quản lý nhà trường về cơ bản khác với quản lý các lĩnh vực khác. Ở đây, những tác động của chủ thể quản lý là những tác động của công tác tổ chức sư phạm đến đối tượng quản lý nhằm giải quyết những nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Đó là hệ thống tác động có phương hướng, có mục đích, có một quan hệ qua lại lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau.

Quản lý nhà trường được quy định bởi bản chất lao động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy học, giáo dục. Trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là đối tượng quản lý vừa là chủ thể tự hoạt động của bản thân mình. Sản phẩm tạo ra của nhà trường là nhân cách người học sinh được hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng rèn luyện và phát triển theo yêu cầu của xã hội và được xã hội thừa nhận.

Tóm lại: Quản lý nhà trường là một bộ phận của Quản lý giáo dục (QLGD). Quản lý nhà trường, suy cho cùng là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL nhằm làm cho nhà trường vận hành theo đúng đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ. Người QL nhà trường phải làm sao cho hệ thống các thành tố vận hành liên kết chặt chẽ với nhau, đưa đến kết quả mong muốn.

1.2.4. Quản lý hoạt động dạy học

Hoạt động dạy học (HĐDH) làm cho học sinh (HS) nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống, cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập, lao động và trong đời sống. Hoạt động này làm phát triển tư duy độc lập sáng tạo, hình thành những năng lực cơ bản về nhận thức và hành động của học sinh, hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan, và những phẩm chất đạo đức.

Quản lý hoạt động dạy học là quá trình người hiệu trưởng hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra hoạt động dạy học của giáo viên nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong toàn bộ quá trình quản lý nhà trường thì quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng là hoạt động cơ bản nhất, quan trọng nhất.

Quản lý hoạt động dạy học thực chất là quản lý quá trình truyền thụ tri thức của đội ngũ giáo viên và quá trình lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh; QL các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động dạy học của cán bộ QL nhà trường.

Quản lý HĐDH là nội dung, cách thức, cách giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó của chủ thể quản lý. Trong quản lý giáo dục, biện pháp quản lý là tổ hợp nhiều cách thức tiến hành của chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải quyết những vấn đề trong công tác quản lý, làm cho hệ quản lý vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể quản lý đã đề ra và phù hợp với quy luật khách quan. Trong nhà trường, biện pháp quản lý hoạt động dạy và học là những cách thức tổ chức, điều hành kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy và học của cán bộ, giáo viên và học sinh nhằm đạt được kết quả cao nhất đã đề ra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

1.2.5. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học

Biện pháp quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển hợp với quy luật, đạt được mục đích đề ra và đúng ý chí của người quản lý.

Quản lý dạy học tại các trường trung học phổ thông huyện Đắk Glong tỉnh Đắk Nông theo định hướng Chương trình giáo dục phổ thông 2018 - 3

Biện pháp quản lý là những cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp quản lý. Vì đối tượng quản lý phức tạp nên đòi hỏi các biện pháp quản lý phải đa dạng, linh hoạt, phù hợp với đối tượng quản lý.

Vậy, chúng ta có thể khái quát lại như sau: Biện pháp quản lý là cách làm, cách giải quyết hợp lý từng vấn đề, từng công việc, từng hoàn cảnh, điều kiện, tình huống cụ thể…do chủ thể quản lý lựa chọn và ra quyết định nhằm thực thi các công việc cần thiết, hoặc xử lý các vấn đề đặt ra, từ đó giúp hệ thống, đơn vị đạt được mục tiêu quản lý.

Biện pháp QL hoạt động dạy học của người hiệu trưởng (HT) là cách thức tiến hành của hiệu trưởng để tác động đến những lĩnh vực trong quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học để thực hiện được mục tiêu giáo dục đã đề ra.

1.3. Lý luận về giáo dục trung học phổ thông

1.3.1. Trường trung học phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân

1.3.1.1. Vị trí trường trung học phổ thông

Điều 2, Chương I, Điều lệ trường trung học phổ thông ban hành kèm theo thông tư 32/2020/TT-BGDĐT, ngày 15 tháng 9 năm 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định: “Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm hoàn chỉnh học vấn phổ thông. Trường có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng”. THPT là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là giai đoạn quan trọng mà học sinh cần phải tích luỹ đầy đủ những kiến thức phổ thông cơ bản, toàn diện để chuẩn bị học lên (đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp) hoặc đi vào cuộc sống xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Ở độ tuổi từ 15 - 18, học sinh THPT có đủ các điều kiện về tâm - sinh lý, trí tuệ và thể chất để phát triển nhân cách toàn diện. Chất lượng học tập ở bậc học này quyết định năng lực làm việc, tư duy sáng tạo, kỹ năng sống của mỗi con người.

1.3.1.2. Mục tiêu giáo dục trung học phổ thông

Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Xác định đúng đắn mục tiêu giáo dục có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu giáo dục như là một phần của định hướng, chỉ đường cho các khuôn mẫu phát triển và làm nền tảng cho sự vận động của tình hình hiện tại đi đến tương lai.

Ngoài ra những mục tiêu cụ thể được xác định nhằm duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước năm 2000, phổ cập trung học cơ sở năm 2010, phổ cập THPT năm 2020. Bảo đảm phần lớn thanh, thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn học hết THPT, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề. Tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, suốt đời.

1.3.1.3. Nội dung giáo dục trung học phổ thông

Khoản 2,3 điều 30 Luật Giáo dục quy định: Giáo dục trung học phổ thông củng cố, phát triển nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông; bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp

cho học sinh, có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh.

Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục.”

Nội dung giáo dục THPT là “phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông. Ngoài nội dung chủ yếu nhằm bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và để phát huy năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh”.

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, đổi mới nội dung giáo dục nhằm loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản cập nhật với tiến bộ của khoa học và công nghệ, tăng nội dung khoa học - công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành ở bậc học phổ thông, tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học, coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội - nhân văn, nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc, địa lý và văn hoá Việt Nam.

Như vậy, nội dung giáo dục THPT được đổi mới phải mang tính chất phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp, gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý học sinh.

Để thực hiện những mục tiêu và nội dung đổi mới giáo dục THPT theo tinh thần của chương trình GDPT 2018, yêu cầu xây dựng đội ngũ giáo viên chuẩn hoá, có chất lượng cũng như tăng cường việc đào tạo, sử dụng đội ngũ giáo viên càng trở nên cấp bách.

1.3.1.4. Kế hoạch giáo dục ở bậc trung học phổ thông

Kế hoạch giáo dục là một văn bản có tính pháp lý của Nhà nước do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành trong toàn quốc, mọi cơ sở giáo dục, cán bộ quản lý, giáo viên phải thực hiện nghiêm túc.

Kế hoạch giáo dục quy định: Thành phần các môn học, trình tự dạy các môn ở từng lớp, số giờ dành cho từng bộ môn học trong tuần, trong năm, cầu trúc thời gian của năm học, khoa học giáo dục là tài liệu quan trọng nhất nhằm xác định nội dung, mức độ học vấn phổ thông và tổ chức các hoạt động giáo dục góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp học, bậc học. Định hướng mang tính nguyên tắc khi xây dựng kế hoạch giáo dục trong thời gian tới:

Kế hoạch giáo dục phải phản ánh mục tiêu giáo dục toàn diện bao gồm những yêu cầu về giáo dục đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, lao động kỹ thuật.

Kế hoạch giáo dục phải phản ánh tính hài hoà, cân đối giữa các mặt giáo dục bảo đảm tính hệ thống, kế tiếp. Xác định hệ thống môn học với thời lượng phù hợp, bảo đảm coi trọng nội dung giáo dục, khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn, kỹ năng và công nghệ.

Kế hoạch giáo dục xây dựng phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý và sức khoẻ của học sinh.

Để bảo đảm mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh THPT, những nội dung kiến thức cần thiết về kỹ thuật, công nghệ, hướng nghiệp, và những kiến thức về: dân số, môi trường, pháp luật, giao thông, ngoại ngữ, sử dụng máy tính, âm nhạc, mỹ thuật, hướng nghiệp... ngày càng được cập nhật hoá, tích hợp trong các môn học.

Mục tiêu, nội dung, phương pháp, kế hoạch giáo dục là những thành tố của hệ thống giáo dục và chúng có quan hệ hữu cơ, gắn bó và tác động qua lại lẫn nhau. Đối với mục tiêu giáo dục không những phải đổi mới nội dung, phương pháp, kế hoạch giáo dục mà còn phải xây dựng đội ngũ giáo viên có năng lực, đủ tài đức để thực hiện mục tiêu đó, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Sự phát triển của giáo dục phổ thông với đặc trưng về tổ chức sư phạm như cơ cấu hệ thống, nội dung đào tạo, tổ chức các điều kiện đào tạo, nếu có sự quản lý tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy các nhân tố tích cực, hạn chế các diễn biến tiêu cực của kinh tế - xã hội.

1.3.2. Yêu cầu và xu thế phát triển trường THPT hiện nay

Trong bối cảnh thế giới cũng như trong khu vực và nước ta hiện nay đặt ra cho giáo dục trung học những yêu cầu mới. Trước hết đó là những vấn đề như sau:

Sự bùng nổ tri thức khoa học và công nghệ. Đây là xu thế đưa nhân loại đến nền văn minh trí tuệ. Nhờ vào lượng thông tin khoa học - công nghệ, nhờ vào công nghệ cao như vi điện tử, tin học, sinh học, tự động học, vật liệu mới xã hội thông tin sẽ tạo ra một nền “công nghiệp sinh thái”. Vì vậy, tác giả Hoàng Đức Nhuận trong bài: “Bàn về vai trò giáo dục của nhà trường trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam” đề nghị phải xem lại học vấn THPT, cấu trúc lại chương trình và nội dung dạy học, phải phát triển cho được ở học sinh phương pháp tư duy sáng tạo.

Con người sẽ thay đổi những quan niệm cơ bản đối với thiên nhiên và xã hội. Sự tiến bộ xã hội không chỉ đo bằng công nghệ hoặc mức sống vật chất, mà bằng cả chỉ tiêu đạo đức, thẩm mỹ, môi trường, văn hoá, tinh thần…. Con người sẽ là trung tâm của sự phát triển. Sự phát triển phải là của dân, do dân tham gia thực hiện, sự phát triển vì nhân dân, vì hạnh phúc con người, xem con người là động lực phát triển của xã hội. Đảng ta đã đề ra mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Nền kinh tế thế giới cũng như khu vực đi đến một khuôn khổ toàn cầu. Bất kể đất nước nào nếu thu nhận được những bài học của thị trường, tạo lập được những phẩm chất cho phép cạnh tranh trong một thế giới kinh tế không biên giới thì mới có cơ hội thành công. Giáo dục được nhận thức như một động lực, một đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế

Thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Ngày nay các quốc gia không còn tách biệt nhau mà càng ngày càng liên kết trong một cộng đồng khu vực giáo dục, yêu cầu sử dụng vệ tinh cho giáo dục từ xa, nhu cầu xây dựng trường quốc tế, đa quốc gia.

Sự hợp tác đa phương, song phương ngày càng mở rộng, làn sóng đua tranh, sàng lọc ngày càng gay gắt. Xuất hiện trạng thái đa văn hoá trên nền văn hoá truyền thống. Trong quan hệ quốc tế, hợp tác trí tuệ rất quan trọng. Hợp tác quốc tế về trí tuệ là nét điển hình trong thế giới ngày nay.

Bối cảnh thế giới sẽ xuất hiện những khủng hoảng trầm trọng như: nạn ô nhiễm môi trường sinh thái, sự bùng nổ dân số, xung đột sắc tộc, dân tộc và tôn giáo, sự đói nghèo, lạc hậu, dịch bệnh và ngu dốt đã ảnh hưởng đến nền giáo dục nói chung và GDTH nói riêng trong tình hình mới hiện nay.

Ở nước ta, từ năm 1986 trở lại đây, thời gian mặc dù chưa dài, nhưng con người Việt Nam bước đầu bộc lộ một số đặc điểm nhân cách của mình trong điều kiện mở cửa. Chuyển sang cơ chế mới, mỗi con trước hết phải chịu trách nhiệm về công việc của mình. Cho nên biết tính toán hiệu quả kinh tế, sự đòi hỏi mức tiêu dùng hàng ngày càng cao, chấp nhận ganh đua, chấp nhận giàu nghèo. Vì vậy tạo ra sự hăng say lao động, học tập thay cho trung bình chủ nghĩa, đặc biệt ở lứa tuổi học sinh THPT và sinh viên.

Về vai trò của giáo dục trên thế giới cũng như trong nước ngày càng được khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Giáo dục là chìa khoá mở cửa tiến vào tương lai”, “Giáo dục là con đường cơ bản để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước’.

Bác Hồ cũng đã dạy: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế, văn hoá”. Do đó, học tập là đặc trưng nổi bật của cuộc sống hiện tại và tương lai. Mỗi con người phải có một trình độ học tập nhất định, một tay nghề nhất định, trên cơ sở đó mới có thể tự rèn luyện để thích nghi và sáng tạo trong cuộc sống đang có nhiều biến đổi.

Ở nước ta, sự chuyển đổi nền kinh tế, cùng với sự đổi mới trên mọi lĩnh vực đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội. Thực tiễn đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục trung học (GDTH) nói riêng phải kịp thời đổi mới mục tiêu, nội dung, phương thức đào tạo. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi phải nhìn nhận lại những vấn đề cơ bản của GDTH nước ta: Cần khắc phục và giải quyết sự sa sút về chất lượng, sự thiếu trung thực trong thi cử, nạn dạy thêm, học thêm tràn lan, sự không phù hợp với tình hình biến đổi khoa học - xã hội của đất nước hiện nay. Những vấn đề bức xúc được thể hiện ở chỗ:

Chất lượng học tập của học sinh nhìn chung còn thấp.

Những điều kiện phục vụ cho dạy và học vừa thiếu vừa yếu kém đã ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập.

Không đa dạng và thiếu cân đối về loại hình trường trung học. Suốt cả một thời gian dài, dạy nghề chỉ là hình thức, hoàn toàn lý thuyết, rất xa rời thực tế.

Chưa có sự phân hoá trong nội dung dạy học ở cấp THPT đã ảnh hưởng không tốt đến vấn đề hướng nghiệp cho học sinh.

Giáo dục trung học nước ta trong hơn nửa thế kỉ qua, đã có những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã bước sang một thời kỳ mới. Những yêu cầu mới của cách mạng đòi hỏi cần phải thay đổi cơ cấu, nội dung và phương pháp GDTH.

Như đã trình bày, hệ thống giáo dục trong giai đoạn mới biến đổi nhanh chóng về khoa học, kỹ thuật, kinh tế - xã hội, hoạt động dạy và học phải luôn tự điều chỉnh để thích ứng. Giáo dục trung học có vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế xã hội, đất nước, thực hiện 3 mục tiêu giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong những năm tới, GDTH cần được đổi mới theo hai phương hướng sau:

Góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, bình đẳng, hạnh phúc thông qua việc nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Đồng thời góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh, nhằm đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra cho cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội.

Hoà nhập GDTH trên thế giới nhất là ở khu vực trong bối cảnh một thế giới mở cửa, hợp tác để giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu

Để thực hiện sứ mệnh trọng đại này, trong quá trình đổi mới GDTH cần phải giải quyết những vấn đề sau đây:

Tăng cường khả năng mở rộng quy mô đào tạo để đáp ứng những yêu cầu phát triển sản xuất, góp phần thực hiện bình đẳng trong cơ hội hưởng thụ giáo dục.

Bảo đảm hiệu quả và chất lượng GDTH trong tình hình đất nước còn nghèo, khả năng tài chính của đất nước đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp.

Đa dạng hoá các hình thức tổ chức GDTH để vừa bảo đảm cơ hội học tập cho mọi người, vừa đáp ứng những yêu cầu của một nền kinh tế đang phát triển, tạo ra một xã hội học tập.

Phân hoá nội dung đào tạo vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, vừa đáp ứng nhu cầu của học sinh và mong muốn của gia đình học sinh

Ngành giáo dục - đào tạo nước ta đứng trước 3 mục tiêu lớn: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ CNH, HĐH đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được những mục tiêu trên, vấn đề xây

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 09/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí