Dạy Học Tự Chọn, Quản Lý Dạy Học Tự Chọn Ở Trường Trung Học Phổ Thông

Giáo dục trung học gồm Giáo dục phổ thông và Giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp. Giáo dục phổ thông được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục sơ trung và cao trung (tương đương với cấp 2 và cấp 3) mỗi giai đoạn 3 năm. Các môn học gồm Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ, Chính trị, Lịch sử, Địa, Lý, Hoá, Sinh học, Kỹ thuật lao động.. Bên cạnh các môn bắt buộc trong chương trình chính khoá, HS còn được tham gia lựa chọn các môn học, các chủ đề tự chọn mà mình thích, HS được học chương trình DHTC. Qua đó nhằm đạt các yêu cầu: tính ổn định của chương trình, chú ý hơn đến việc học phát hiện, làm việc độc lập và hợp tác, tập giải quyết vấn đề và các nội dung cần lựa chọn để học tập, đưa vào các cấp những cơ sở đầu tiên của KHTN và KHXH cũng như toán học hiện đại và ngôn ngữ, coi trọng các nhiệm vụ đặc trưng cho môn học trong giờ Nghệ thuật, Âm nhạc và giờ học ở xưởng trường

Giáo dục Trung học phổ thông Hoa Kỳ

Cũng như các nước khác Hoa Kỳ thực hiện GDTrH bắt buộc 3 năm, bên cạnh những môn cốt lõi được dạy trong chương trình như Tiếng mẹ đẻ, Toán, Khoa học, Nghệ thuật, Thể dục thì những môn học khác như Môi trường, Tôn giáo cũng như nội dung đặc thù của một số môn học cốt lõi được đưa vào dạy trong nhà trường trung học phổ thông dưới hình thức tự chọn. Các trường THPT ở Mỹ đã đưa vào dạy các nội dung tự chọn như: Âm nhạc, Kịch, Thể thao nhằm giúp học sinh phát triển năng khiếu cá nhân. Các trường còn tổ chức các ban nhạc học sinh, các đội đồng ca hợp xướng sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, ở những lớp này còn tổ chức dạy sử dụng nhạc cụ cho những học sinh có nhu cầu, có nguyện vọng.

Ngoài ra, một số trường THPT ở Hoa Kỳ cũng đưa một số nội dung tự chọn khác tạo điều kiện cho học sinh có thể trang bị cho bản thân những kiến thức, kỹ năng tối thiểu và cần thiết cho cuộc sống sau này như: các kiến thức về phòng chống tội phạm, kỹ năng người tiêu dùng, kỹ năng sống dưới hình thức DHTC.

Như vậy, một số nước trên thế giới đã tổ chức đa dạng các nội dung và

hình thức dạy học và giáo dục, ngoài việc tăng thời gian học tập còn tăng số lượng các môn học dưới hình thức tự chọn đã trở thành xu thế chung và tất yếu.

Qua các thông tin trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

Ở hầu hết các nước, số năm học bậc trung học phổ thông là 2 hoặc 3 năm (tuỳ theo điều kiện và truyền thống GD). Hầu như các nước đều có chương trình quốc gia thống nhất. Số môn học: khoảng 10 đến 12 môn, một số nước phân chia thành môn cốt lõi (Tiếng mẹ đẻ, Toán và Khoa học) và môn nền tảng (các môn còn lại). Giáo viên nói chung phải dạy đủ tất cả các môn, cũng có nước bố trí được GV dạy các môn chuyên biệt như: Hoạ - Nhạc, Thể dục, Ngoại ngữ và Tin học nên nhiều trường đã tổ chức hình thức DHTC, học sinh ngoài việc học các môn bắt buộc còn được học chương trình DHTC, nhằm đáp ứng nhu cầu, sở thích, tạo điều kiện, năng lực, sở trường, năng khiếu cá nhân được bộc lộ và phát triển.

Tìm hiểu xu thế tổ chức DHTC trên thế giới cho thấy các môn học tự chọn ở nhiều nước có nhiều sự khác biệt. Tuy nhiên, xu thế chung là tỉ lệ thời lượng dành cho các môn học tự chọn tăng dần từ THCS tới THPT, thường từ 10% ở THCS tăng lên đến 40% ở THPT. Tại một số nước như Hoa Kỳ, Đức, Newzeland,... sau khi kết thúc chương trình cơ bản (Basis Curriculum), chươngtrình của 2 lớp cuối cấp hoàn toàn chỉ bao gồm các khóa học tự chọn. Việc phân chia các môn học tự chọn diễn ra khác nhau ở các nước.

Từ kinh nghiệm DHTC của các nước Mỹ, Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Trung Quốc… đã rút ra nhận định: Để tổ chức DHTC thực sự có ý nghĩa và hiệu quả thì chương trình phải bao gồm 2 hệ thống. Đó là chương trình các môn học bắt buộc và chương trình các môn học tự chọn; việc học tập được thực hiện theo chế độ tín chỉ; các học trình thường được xây dựng ở nhiều cấp độ khác nhau; tỉ lệ thời lượng DHTC cao, thường từ 30% trở lên và có xu hướng ngày càng tăng; để tổ chức DHTC có hiệu quả, cần phải có những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất; hình thức DHTC đòi hòi GV phải sáng tạo và đầu tư nhiều

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

công sức. Chương trình THPT mới của Việt Nam đã tiếp cận với những xu thế chung của thế giới là: bảo đảm tính toàn diện và cân đối, tính phát triển, tính thiết thực và cập nhật. Tuy nhiên chương trình THPT chỉ mới có nội dung các môn học bắt buộc, đa số các trường mới chỉ thực hiện dạy học các môn bắt buộc trong chương trình, môn có chủ đề DHTC giáo viên vẫn phải chọn, biên soạn nội dung cho phù hợp, các nội dung dạy học đáp ứng nhu cầu, hứng thú học tập và tạo điều kiện cho học sinh phát triển năng khiếu thì chưa được các nhà trường chú trọng đưa vào dạy cho HS.

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

Quản lý dạy học tự chọn ở các trường trung học phổ thông huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng - 3

Trong những năm gần đây, vấn đề dạy học tự chọn đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả. Theo tác giả Trần Luận (Viện Khoa học giáo dục Việt Nam), DHTC nhằm mục đích phân hoá học sinh cũng như góp phần giáo dục toàn diện, phát triển năng lực cá nhân trong một số lĩnh vực học tập, góp phần bồi dưỡng tài năng theo đặc điểm của cấp Trung học và của địa phương, đạt được mục tiêu của giáo dục THPT. Chương trình DHTC là sự phát triển theo chiều sâu của các kiến thức, kỹ năng cơ bản trong chương trình THPT hiện hành ở các lớp 10, 11, 12 (trừ môn nghề phổ thông và ngoại ngữ 2 có chương trình độc lập). Tăng cường khả năng vận dụng, thực hành các kiến thức, kỹ năng cơ bản để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội… gần gũi với đời sống của học sinh. Theo định hướng của nội dung DHTC ở trung học mà Viện Chiến lược và chương trình GD đưa ra thì tất cả các môn bắt buộc trong chương trình THPT hiện hành đều được đưa vào nội dung DHTC. Đối với môn Ngữ văn, Lịch sử và Địa lý thì nhằm phát triển các kỹ năng thực hành giải quyết các tình huống có vấn đề trong đời sống gần gũi với học sinh. Các môn Âm nhạc, Thể dục nhằm phát triển các kiến thức, kỹ năng cơ bản gắn với bản sắc, truyền thống của dân tộc, phát triển năng khiếu cá nhân của học sinh.

Riêng đối với những trường tổ chức dạy 2 buổi/ngày, ngoài thời gian học chính khoá bắt buộc phải tuân thủ kiến thức của chương trình khung thì học sinh có quyền tự do lựa chọn môn học mình yêu thích, nhưng tối đa là 3 môn học.

Mục tiêu của DHTC là không biến buổi học phụ kia thành học thêm, nhồi nhét kiến thức mà tập trung phát triển năng khiếu cho học sinh, phối hợp “học mà chơi, chơi mà học”, tạo ra hứng thú và năng lực sáng tạo cho học sinh. Một số thuật ngữ cơ bản và vấn đề liên quan như sau: Phân hóa;Giáo dục; Dạyhọc; Phân hóa trong giáo dục; Năng lực; Tích hợp trong giáo dục; Học vấn phổ thông và các lĩnh vực học tập; Chương trình GD phổ thông (xét theo mứcđộ có các loại: cơ bản, mở rộng, nâng cao, chuyên sâu; xét về tính phổ biến có chương trình GD bắt buộc; tự chọn với tự chọn bắt buộc và tự chọn tuỳ ý). Việc phát triển chương trình GD của nhiều quốc gia trên thế giới đang chuyển từ “định hướng đầu vào”sang “định hướng đầu ra”- còn được gọi là quan điểm phát triển chương trình dựa vào năng lực người học; Hình thức tổ chức phân hoá trong giáo dục (Phân ban; Phân luồng; Dạy học tự chọn; Phân ban kết hợp với dạy học tự chọn; Phân luồng kết hợp với dạy học tự chọn).

Những căn cứ của phân hoá trong giáo dục bao gồm:

- Triết lí giáo dục: Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, đề tài cho rằng triết lý GD Việt Nam trong giai đoạn tới phải tiếp cận được triết lý GD chung của thế kỷ XXI, vì vậy, GD Việt Nam phải là nền GD đại chúng, cho mọi người trongxã hội; GD suốt đời, để mọi người ở mọi lúc, mọi nơi đều được hưởng phúc lợi GD,… chú ý tới năng lực riêng tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sựnghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Cơ sở tâm lý học lứa tuổi: Những sự khác biệt về mặt tâm lý tạo nên sự phong phú đa dạng của cuộc sống xã hội, đồng thời còn là những cơ sở quan trọng để tiến hành phân hoá trong GD. Vào những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, những nghiên cứu về các giai đoạn phát triển tâm lí của trẻ em của một số nhà tâm lí học nước ngoài như J. Piaget (Lý thuyết Phát triển nhận thức), Howard Gardner (Lý thuyết đa trí tuệ),… đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện phân hoá GD ở các nước.

Những lý thuyết hiện đại về sinh lý học và đặc biệt là tâm lý nhận thức của

trẻ vị thành niên cho thấy muốn phát triển những khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người cần tổ chức thực hiện phân hoá trong GD và cần có sự phân chia mức độ thực hiện phân hoá đối với từng cấp, bậc học sao cho vừa đảm bảo nền học vấn phổ cập, bắt buộc đối với mọi đối tượng, vừa tạo điều kiện phát huy tối đa tiềm năng của mỗi con người.

- Cơ sở giáo dục học: Dựa vào nhóm năng lực, hứng thú hoặc nhu cầu học tập của người học và mục tiêu GD của xã hội tạo ra những khác biệt nhất định trong hệ thống GD, trong việc tổ chức các loại hình trường/ lớp, các nội dung GD và phương thức GD theo nhiều hướng khác nhau.

GD học đưa ra một số nguyên tắc thực hiện phân hoá trong GD: Tính đa dạng của chương trình GD; Tính khác biệt của quá trình và kết quả học tập; Tối đa hóa các cơ hội học tập; Tính công bằng về cơ hội học tập; Tính linh hoạt của các cơ hội và điều kiện học tập; Tính thích ứng của quản lí chương trình.

- Cơ sở kinh tế - xã hội: Phân tích mối quan hệ cung cầu giữa nền kinh tế

- xã hội và GD cho thấy nền kinh tế càng phát triển thì bắt buộc GD phải hình thành nhiều phương thức đào tạo, ngành nghề đào tạo khác nhau và phân hoá trong GD tất yếu phải thực hiện.

Phân hoá trong GD phải tính tới các điều kiện nhằm đảm bảo quyền học tập và công bằng xã hội, bình đẳng về cơ hội học tập của trẻ em thuộc các nhóm xã hội, các giai tầng xã hội khác nhau. Như vậy, cần xây dựng một chương trình GD phổ thông theo đúng nghĩa là “phổ thông”, để tất cả trẻ em đều được đi học, học được đồng thời xây dựng những chương trình GD lựa chọn để trẻ em nào có điều kiện đều có thể tự do tham gia học tập.

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Quản lý nhà trường, quản lý dạy học

1.2.1.1. Quản lý nhà trường

Theo Phạm Minh Hạc “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục - đào tạo đối với ngành giáo

dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [6].

Theo tác giả Trần Hồng Quân “Quản lý nhà trường phổ thông là quản lý dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác, để dần tới mục tiêu giáo dục” [25].

Như vậy QL nhà trường là những hoạt động của chủ thể QL nhà trường (Hiệu trưởng) đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả.

1.2.1.2. Quản lý dạy học

Quản lý dạy học thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình dạy học (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường. Quản lý dạy học giữ vị trí quan trọng trong công tác quản lý nhà trường.Mục tiêu quản lý chất lượng đào tạo là nền tảng, là cơ sở để nhà quản lý xác định các mục tiêu quản lý khác trong hệ thống mục tiêu quản lý của nhà trường.

Quản lý dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của người Hiệu trưởng. Xuất phát từ vị trí quan trọng của hoạt động dạy học, người Hiệu trưởng dành nhiều thời gian và công sức cho công tác quản lý hoạt động dạy học nhằm ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Quản lý dạy học có ba đặc điểm: Một là, quản lý dạy học mang tính chất quản lý hành chính sư phạm, có nghĩa là quản lý theo pháp luật, theo những nội qui, qui chế, quyết định có tính bắt buộc trong hoạt động dạy học. Đồng thời, việc quản lý phải tuân thủ các qui luật của quá trình dạy học, giáo dục diễn ra trong môi trường sư phạm, lấy hoạt động và quan hệ dạy - học của thầy và trò làm đối tượng quản lý. Hai là, quản lý hoạt động dạy học mang tính đặc trưng của khoa học quản lý. Nó phải vận dụng hiệu quả các chức năng quản lý trong việc điều khiển quá trình dạy học. Ba là, quản lý hoạt động dạy học có tính xã

hội hóa cao do chịu sự chi phối trực tiếp của các điều kiện kinh tế - xã hội và có mối quan hệ tương tác thường xuyên với đời sống xã hội.

1.2.2. Dạy học tự chọn, quản lý dạy học tự chọn ở trường trung học phổ thông

1.2.2.1. Dạy học tự chọn

Trong nhà trường, hoạt động dạy học là hoạt động cơ bản, đặc trưng cho trường học. Dạy học tự chọn là một hình thức dạy học phân hóa cho phép mỗi học sinh ngoài việc học theo một chương trình chung còn có thể chọn học một số môn học, nội dung học khác nhau phù hợp với sở trường của mình.

1.2.2.2. Quản lý dạy học tự chọn

Quản lý dạy học là quản lý hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò và những điều kiện vật chất phục vụ việc dạy và học.

Quản lý dạy học tự chọn là QLDH trong nhà trường về nội dung, phương pháp, hình thức dạy học tự chọn cùng các yếu tố ảnh hưởng đến dạy học tự chọn nhằm khơi dậy, phát huy nội lực của người học, tạo cơ hội để mọi học sinh được phát triển theo năng lực, sở trường và điều kiện của mình; phát huy lòng yêu nghề, trách nhiệm với nghề nghiệp của người dạy để dạy tốt, học tốt, tạo ra khát vọng và năng lực học suốt đời của người học. Trong toàn bộ quá trình quản lý của nhà trường thì quản lý DHTC là hoạt động không thể thiếu và rất quan trọng. Quản lý DHTC của Hiệu trưởng thực chất là quản lý về mục tiêu, kế hoạch, nội dung chương trình, quản lý hoạt động dạy, hoạt động học; quản lý về công tác kiểm tra đánh giá trong DHTC.

1.3. Một số vấn đề về dạy học môn tự chọn ở trường THPT

1.3.1. Vài nét về chương trình giáo dục phổ thông và dạy học tự chọn trong chương trình

Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được Bộ GD&ĐT ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05-5-2006 chia làm ba cấp

học: cấp tiểu học, cấp THCS và cấp THPT. Cấp THPT bao gồm ba lớp học: lớp 10, lớp 11, lớp 12.

Trong đó, cấp THPT thực chương trình phân ban theo đề án của Bộ GD- ĐT, gồm có ba ban được tổ chức trong các trường THPT là Ban Khoa học Tự nhiên (với 4 môn Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học), Ban Khoa học Xã hội - Nhân văn (với 4 môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ) và Ban Cơ sở (dạy và học theo chương trình chuẩn đối với tất cả các môn).

Với ba ban này, chương trình THPT được sắp xếp lại, bao gồm chương trình chuẩn cho tất cả các môn học và chương trình nâng cao cho 8 môn phân hóa, đó là các môn: Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa, Ngoại ngữ. Mức độ chênh lệch kiến thức giữa các môn nâng cao so với chương trình chuẩn là 20%. Đối với 8 môn nâng cao này sẽ có 2 bộ sách giáo khoa (SGK) tương ứng cho hai ban, riêng đối với Ban Cơ sở, học sinh sẽ dùng SGK theo chương trình chuẩn cho tất cả các môn học. Tuy nhiên, học sinh học Ban Cơ sở có thể sử dụng sách nâng cao cho một số môn do nhà trường quyết định dựa trên nhu cầu của học sinh và điều kiện của nhà trường.

Trong kế hoạch dạy học của Ban Cơ sở có 4 tiết dạy học tự chọn/tuần, học sinh Ban Cơ sở có thể sử dụng số tiết dạy học tự chọn này để chọn lọc từ 1 - 3 môn trong số 8 môn nâng cao. Các trường sẽ tự quyết định các ban có trong trường mình căn cứ vào nguyện vọng của học sinh, điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và khả năng tổ chức của nhà trường.

Từ những căn cứ trên, dưới sự hướng dẫn của Sở GD&ĐT Cao Bằng, đồng thời dựa vào điều kiện thực tế ở địa phương như cơ sở vật chất, trình độ nhận thức của học sinh,… các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng đã thực hiện chương trình dạy học Ban Cơ sở với bộ sách giáo khoa theo chương trình chuẩn từ năm học 2005 - 2006. Trong đó, dạy học tự chọn được thực hiện theo hướng dẫn của các cấp có thẩm quyền.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/05/2022