7.2. Phương pháp bổ trợ
Phương pháp xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê toán học.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận - Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trường PTDT nội trú, bán trú theo định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trường PTDT nội trú, bán trú huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn theo định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trường PTDT nội trú, bán trú huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn theo định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ, BÁN TRÚ THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú huyện ba bể, tỉnh Bắc Kạn theo định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông - 1
- Quản lí hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú huyện ba bể, tỉnh Bắc Kạn theo định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông - 2
- Pháp Luật Và Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú, Bán Trú Theo Định Hướng Đổi Mới Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông
- Mục Tiêu Của Giáo Dục Pháp Luật Cho Hsptdt Nội Trú, Bán Trú Theo Định Hướng Đổi Mới
- Hình Thức Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Trường Ptdt Nội Trú, Bán Trú Theo Định Hướng Đổi Mới Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc quản lí HĐGD nói chung và nâng cao chất lượng quản lí HĐGD pháp luật nói riêng là một vấn đề được nhiều tác giả trên thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Thực tế cho thấy có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể như sau:
1.1.1. Trên thế giới
Giáo dục pháp luật là một trong những nội dung quan trọng của khoa học Lý luận về Nhà nước và pháp luật nên nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, tác giả tại các nước trên thế giới, đặc biệt là tại Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay. Có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu:
N. I. Matuzova, A. V. Malưko, Lý luận nhà nước và pháp luật [27]. Trong cuốn giáo trình này, trong số 34 chuyên đề bàn sâu về các vấn đề lý luận nhà nước và pháp luật, các tác giả cuốn sách dành chuyên đề số 28 để luận bàn, phân tích về vấn đề ý thức pháp luật và GDPL. Theo các tác giả, GDPL là hoạt động có chủ đích của nhà nước, các tổ chức xã hội và mỗi công dân nhằm truyền đạt các kinh nghiệm pháp luật; sự tác động có hệ thống lên ý thức và hành vi của con người nhằm làm hình thành quan niệm, định hướng giá trị, cách nhìn nhận tích cực, bảo đảm cho việc thực hiện và sử dụng pháp luật. GDPL trang bị cho mọi người những hiểu biết về nhà nước và pháp luật, về các đạo luật, các quyền tự do, dân chủ của mỗi cá nhân, định hướng cho công dân thực hiện những hành vi pháp luật hợp pháp. Các thành tố của GDPL bao gồm chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức GDPL.
Lý luận nhà nước và pháp luật, Giáo dục pháp luật ở Liên bang Nga, Tập thể tác giả [28]. Trong công trình này, dưới tiêu đề “Khái niệm giáo dục pháp luật và ý thức pháp luật, ý nghĩa của chúng trong xã hội hiện đại”, các tác giả đã tập trung bàn sâu về khái niệm GDPL trên cơ sở những định nghĩa GDPL được đưa ra bởi những nhà nghiên cứu khác nhau. Chẳng hạn, “GDPL là sự tác động có định hướng, có tổ chức, mang tính hệ thống lên các cá nhân nhằm làm hình thành ý
thức pháp luật, tri thức pháp luật, thói quen, hành vi xử sự tích cực theo pháp luật, văn hóa pháp luật” (T.I. Akimova); hoặc “GDPL có thể định nghĩa như là một hệ thống các biện pháp định hướng làm hình thành tư tưởng pháp luật, các nguyên tắc, chuẩn mực pháp luật - những nhân tố làm nên các giá trị văn hóa pháp luật của dân tộc và nhân loại” (K.V. Naumenkova)...
Strelaieva V.V., Giáo dục pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền [29].Nội dung luận án này gồm 2 chương, 7 tiết. Nội dung chương 1 tác giả luận án bàn về cơ sở lý luận của GDPL với 03 tiết: 1) Bản chất, phân loại GDPL; 2) Cấu trúc của GDPL và 3) Chức năng của GDPL. Theo tác giả, bản chất của GDPL là quá trình định vị một cách bền vững những nguyên tắc, tư tưởng pháp luật vào trong ý thức pháp luật của đối tượng được giáo dục. Chương 2 luận án với tiêu đề “Khía cạnh tổ chức GDPL trong xã hội Nga đương đại” gồm 4 tiết được dành để bàn về 1) Hệ thống xã hội hóa GDPL trong xã hội Nga đương đại;
2) GDPL trong tiếp cận với các nhóm xã hội khác nhau; 3) GDPL trong hệ thống định hướng nghề nghiệp cho các luật gia hiện nay; 4) Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục lại về pháp luật. Theo tác giả, giáo dục lại về pháp luật là một quá trình phức tạp hơn, bởi nó hướng tới khắc phục những phán đoán, đánh giá sai lầm của cá nhân, nhắm tới sữa chữa các hành vi xử sự tiêu cực, ảnh hưởng bất lợi đối với con người.
Inpeng Younkham, Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Bolykhamsay, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào [33]. Cơ cấu dân tộc của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có 68 bộ tộc, chia làm 3 hệ chính là Lào Lùm chiếm 65% dân số; Lào Thâng chiếm 22% và Lào Xủng chiếm 13% dân số; ngôn ngữ Lào gồm 04 nhóm ngôn ngữ... Từ thực tế đó, tác giả khẳng định việc GDPL cho đồng bào các DTTS, trong đó có các DTTS ở tỉnh Bolikhamsay, là công việc có vai trò rất quan trọng nhằm trang bị cho đồng bào các DTTS của Lào những kiến thức, hiểu biết pháp luật, hình thành ý thức chấp hành pháp luật. Luận văn đã tập trung phân tích cơ sở lý luận về GDPL cho đồng bào DTTS của Lào; đánh giá những thành tựu, hạn chế của công tác GDPL cho đồng bào DTTS ở tỉnh Bolikhamsay, nêu lên các quan điểm và lập luận những giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả GDPL cho đồng bào DTTS ở tỉnh Bolikhamsay, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu có cùng chủ đề GDPL, như: Babaieva V.K., Tập bài giảng Lý luận chung về pháp luật[31]; Krưgina I.A., Văn hóa pháp luật, giáo dục pháp luật và quản lý quá trình giáo dục
pháp luật trong xã hội Nga hiện nay[32]; Pochtar T.M., Giáo dục pháp luật trong các trường đại học sư phạm: những vấn đề phương pháp luận và phương pháp[30]... Các công trình nghiên cứu khoa học trên đây ở những mức độ khác nhau đã đề cập, bàn luận về khái niệm, bản chất của GDPL, các yếu tố cấu thành GDPL; về vấn đề quản lý GDPL ở nước Nga hiện nay.
Vào tháng 6/2006, tại Paris, Cộng hòa Pháp đã diễn ra Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Hội luật gia dân chủ quốc tế. Trong Chương trình nghị sự của Hội nghị này đã có 01 cuộc Hội thảo với chủ đề “Giáo dục pháp luật trong thời đại toàn cầu hóa” (Legal Education in the Age of Globalization) thu hút sự tham gia của hàng trăm tổ chức luật gia đến từ nhiều nước trên thế giới; tập trung bàn luận về tính cấp thiết, sự cần thiết phải đa dạng hóa các phương thức GDPL cho các tầng lớp xã hội ở mỗi quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu của toàn cầu hóa; nội dung GDPL không chỉ là pháp luật quốc nội của mỗi nước, mà còn phải phổ biến, giáo dục các nội dung pháp luật quốc tế [8].
Trong khuôn khổ Đại hội lần thứ X Hội Luật gia ASEAN (ALA) được tổ chức từ ngày 14/10 - ngày 18/10/2009 tại Hà Nội, một cuộc Hội thảo lớn với chủ đề “Hiến chương ASEAN - đưa ASEAN lên những tầm cao mới” cũng đã đề cập nhiều đến vấn đề GDPL [7]. Trong hợp phần đầu tiên của Hội thảo “Tác động của Hiến chương ASEAN tới hệ thống giáo dục pháp luật của các nước ASEAN” đã có một loạt các báo cáo nghiên cứu về tình hình GDPL và đào tạo pháp luật ở các nước ASEAN.
1.1.2. Ở Việt Nam
Có thể thấy, giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay việc giáo dục pháp luật càng có vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực do đó, giáo dục pháp luật là một trong những nội dung mà các nhà khoa học pháp lý quan tâm và là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta hiện nay. Đã có nhiều công trình nghiên cứu như:
Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai, Bàn về giáo dục pháp luật [6]. Chủ đề xuyên suốt cuốn sách là những nội dung lý luận về GDPL.
Tác giả Đào Trí Úc với nghiên cứu, Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật [23]. Đề tài là một tập hợp các chuyên đề bàn sâu về ý thức pháp luật, lối sống theo pháp luật và các giải pháp xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật. Một trong
số những giải pháp đó là phải tăng cường công tác GDPL cho các tầng lớp xã hội, bao gồm cả đội ngũ CBCC nhà nước và các tầng lớp nhân dân.
Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới [25]. Theo các tác giả, công cuộc đổi mới toàn diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã và đang đặt ra những yêu cầu phải tăng cường công tác tổng kết lý luận và thực tiễn trên các lĩnh vực phục vụ công cuộc đổi mới. Công tác GDPL ở nước ta cũng không nằm ngoài yêu cầu trên.
Tác giả Nguyễn Đình Lộc với công trình; Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam [13]. Trong công trình này, tác giả đã tập trung vào lý giải những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật, như khái niệm, đặc điểm và cấu trúc của ý thức pháp luật; đồng thời, tác giả tập trung khảo sát tình hình giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam, chỉ ra những điểm tích cực cũng như hạn chế trong công tác giáo dục ý thức pháp luật; từ đó, đề xuất những giải pháp cho công tác GDPL tại Việt Nam.
Trần Ngọc Đường với nghiên cứu, Giáo dục pháp luật cho người lao động trong điều kiện đổi mới của Việt Nam [6]. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết quản lý xã hội bằng pháp luật, công tác GDPL cho cán bộ và nhân dân cần phải được chú trọng theo tinh thần Đại hội VII của Đảng: “Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân” [1].
Dương Thanh Mai, Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật [14]. Luận án tập trung bàn luận sâu về hình thức GDPL đặc thù là GDPL thông qua hoạt động tư pháp, dựa trên thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
Tác giả Trần Thị Sáu với nghiên cứu; Giáo dục pháp luật cho học sinh trong trường trung học phổ thông ở Việt Nam [18]. Nội dung luận án tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, đặc trưng và các điều kiện bảo đảm hiệu quả GDPL cho học sinh trong trường trung học phổ thông; đánh giá thực trạng hoạt động GDPL cho học sinh trong trường trung học phổ thông ở Việt Nam; trên cơ sở đó, tác giả đề xuất quan điểm và phân tích các giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả GDPL cho học sinh trong trường trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay.
Phan Hồng Dương, Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học không chuyên luật ở Việt Nam [5]. Tác giả luận án đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của GDPL cho sinh viên các trường đại học không chuyên luật ở Việt Nam.
Ngoài hướng tiếp cận Luật học thể hiện ở các công trình nghiên cứu kể trên, vấn đề GDPL còn được tiếp cận nghiên cứu đa dạng dưới góc độ Giáo dục học, Xã hội học gắn với những lĩnh vực, địa bàn cụ thể. Chẳng hạn:
Tác giả Nguyễn Khắc Hùng với nghiên cứu, Các biện pháp tổ chức giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh [9]. Luận án đã làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các biện pháp tổ chức GDPL; đánh giá thực trạng công tác tổ chức GDPL trong trường học, thực trạng triển khai các biện pháp tổ chức GDPL cho học sinh trong các trường trung học phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh; qua đó, đề xuất ba nhóm giải pháp tác động với 09 biện pháp cụ thể để GDPL cho học sinh trong các trường trung học phổ thông.
Trong nghiên cứu của mình, Tác giả Đoàn Thị Thanh Huyền với công trình, Giáo dục pháp luật cho con cái trong gia đình hiện nay [10] đã hệ thống hóa các khái niệm cơ bản, các lý thuyết xã hội học được sử dụng trong nghiên cứu đề tài; tìm hiểu tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay; đánh giá thực trạng hoạt động GDPL cho con cái thuộc nhóm tuổi trung học cơ sở, trung học phổ thông trong các gia đình tại tỉnh Quảng Ninh thông qua nghiên cứu nhận thức của các bậc cha mẹ.
Những nghiên cứu vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, gồm khái niệm, mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức của giáo dục pháp luật, như: "Một số vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; "Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996 [26], Luận án này đã đi sâu nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về GDPL trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề từ góc độ đánh giá, phân tích thực trạng, rút ra những bài học kinh nghiệm làm cơ sở cho việc đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác này
Ngoài ra, có thể kể thêm công trình nghiên cứu khác, như: Nguyễn Duy Lãm, Một số vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay [12]; Sở Tư pháp Hà Nội, Nghiên cứu tác động của gia đình đối với giáo dục pháp luật cho trẻ em ở Hà Nội [19]; Hồ Quốc Dũng, Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở nước ta - thực trạng và giải pháp [4]; Trần Văn Trầm, Giáo dục pháp luật cho cán bộ công
chức trên địa bàn tỉnh Bình Định - Thực trạng và giải pháp [21]; Bùi Thị Diễm Trang, Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật đối với đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tiến trình hội nhập phát triển của đất nước [22];…
Những bài viết, công trình nghiên cứu trên, ở mức độ nào đó đã có những đóng góp quan trọng vào việc làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề thực hiện chính sách giáo dục pháp luật đối với học sinh trường Phổ thông Dân tộc nội trú, Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở thì chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu, đặc biệt thực hiện đề tài dưới dạng luận văn thạc sĩ ngành Quản lý giáo dục.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý và quản lí giáo dục
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội, là yếu tố cấu thành sự tồn tại và phát triển của loài người. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội. Quản lý là một phạm trù khách quan, là một tất yếu lịch sử. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm về quản lý dưới góc độ khác nhau.
Theo C.Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [2].
Tác giả F.W. Taylor được coi là cha đẻ của thuyết Quản lý khoa học đã cho rằng cốt lõi trong quản lý là: “Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải 7 chuyên môn hóa và phải quản lý chặt chẽ”, “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất” (dẫn theo [2]).
Trong những nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Ngọc Quang đưa ra khái niệm: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động (khách thể quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến” [16].
Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Hoạt động quản lý là: “Tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong một tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [3].
Như vậy, có thể thấy bản chất chung của khái niệm quản lý là một quá trình tác động có ý thức, có định hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả nhất trong điều kiện biến động của môi trường.
Quản lý có các chức năng cụ thể như: Chức năng lập kế hoạch; Chức năng tổ chức; Chức năng chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chu trình quản lý khép kín, tạo hiệu quả trong quá trình quản lý.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có ý thức, có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của con người, có sự tham gia của nhiều thành tố khác nhau nhằm hướng tới một mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ cho đất nước. Dưới góc độ coi giáo dục là một hoạt động chuyên biệt thì QLGD là quản lý tất cả các hoạt động của một cơ sở giáo dục như trường học, các đơn vị phục vụ đào tạo, là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đạt được mục tiêu đào tạo. Dưới góc độ xã hội, QLGD là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD là những hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình Dạy - Học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [16].
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “QLGD là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính vượt trội/tính trồi (emergence) của hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong