Những Nguyên Nhân Cơ Bản Của Những Thành Tựu Và Hạn Chế Trong Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Viên Các Trường Sĩ Quan Quân Đội


- Hình thức GDPL thông qua chế độ khen thưởng và xử phạt nhằm động viên, phát huy mặt tốt, ngăn ngừa sai phạm, nâng cao tính tổ chức, kỷ luật, đảm bảo cho học viên giữ nghiêm kỷ luật quân đội. Đây là hình thức GDPL quan trọng và rất có hiệu quả. Mặc dù vậy, hiện nay ở một số nhà trường SQQĐ hình thức này ít được chú ý. Thường là khi có vụ việc vi phạm pháp luật xảy ra, lãnh đạo, chỉ huy các cấp xử lý không kịp thời, thiếu kiên quyết, xử lý không nghiêm (do sợ mất thành tích, uy tín của đơn vị.)

Ngoài các hình thức trên, các trường SQQĐ còn áp dụng nhiều hình

thức GDPL khác, như nghiên cứu, quán triệt các văn kiện, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, học tập truyền thống Quân đội... theo những hình thức này, các cơ quan chức năng đã tổ chức biên soạn thành đề cương, câu hỏi giải đáp pháp luật để phát cho các trường; đặt mua sách báo, tạp chí pháp luật; xây dựng chuyên mục GDPL qua hê ̣thống đài phát thanh nội bộ; thông tin pháp luật của đài tiếng nói Việt Nam; thông tin pháp luật qua các hoạt động văn nghệ, tranh cổ động; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật...

Như vậy, hình thức GDPL trong các trường SQQĐ hiện nay rất đa dạng, phong phú, đã góp phần đáng kể vào việc trang bị kiến thức, nâng cao ý thức pháp luật cho học viên, đảm bảo giữ nghiêm kỷ luật quân đội, xây dựng nhà trường chính quy. Nhưng so với yêu cầu, hình thức GDPL hiện nay trong các trường SQQĐ còn đơn điệu, chưa vận dụng tốt các chế độ, qui định của điều lệnh, điều lệ quản lý bộ đội vào GDPL; thường tập trung vào hình thức giảng bài, ít chú ý đến các hình thức giáo dục khác. Cũng còn nhiều biểu hiện giản đơn trong công tác phổ biến, GDPL, chỉ quan tâm truyền đạt một chiều, với mỗi nội dung pháp luật, điều lệnh, điều lê ̣Quân đội chỉ tiến hành một lần, thông qua một số hình thức là xong; học mà không kiểm tra đánh giá kết quả, hoặc có đánh giá kết quả nhưng không gắn kết quả ấy với đánh giá học viên,

59


bình xét đoàn viên, đảng viên; học mà không hành, nhiều khi chỉ chú ý hình thức, trọng thành tích, như chỉ tính số lượng bài dự thi, chưa quan tâm đến chất lượng. Ngay trong hình thức lên lớp về pháp luật - hình thức chủ yếu được áp dụng trong nhà trường SQQĐ - cũng chủ yếu do cán bộ kiêm nhiệm tiến hành. Do những người này không được đào tạo cơ bản về tri thức pháp luật, phương pháp sư phạm hạn chế, lại do tài liệu nghiên cứu thiếu, thời gian chuẩn bị bài giảng không nhiều, ít ví dụ thực tế cho nên bài giảng thường khô cứng, thiếu sức thuyết phục, không lôi cuốn người học. Chính hạn chế này là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm cho những kiến thức về điều lệnh, điều lệ Quân đội và pháp luật không thấm sâu vào học viên, trở thành niềm tin, thói quen sống và làm việc theo pháp luật.

Thứ hai, về phương pháp GDPL. Hoạt động GDPL trong các trường SQQĐ những năm qua đã được tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau; có phương pháp mang tính đặc thù của hoạt động quân sự. Thực tiễn áp dụng các phương pháp đó cho thấy:

Phương pháp giảng dạy pháp luật từng bước đã có sự đổi mới và cải tiến, nhưng về cơ bản vẫn còn lạc hậu, kém hiệu quả. Đa số giáo viên pháp luật chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình, giải thích, truyền đạt một chiều. Phương pháp truyền thống tuy có nhiều ưu điểm, nhất là về khả năng truyền tải thông tin, song là phương pháp thụ động, không phát huy được tính độc lập sáng tạo, trí tuệ và kinh nghiệm sống, hoạt động của người học. Quá trình học tập thiếu sinh động. Việc giáo viên giảng, học sinh ghi; giáo viên giải thích, học viên ghi nhớ; giáo viên đọc, học sinh ghi chép; giáo viên chủ động cung cấp nội dung, học viên thụ động tiếp nhận và tái hiện thực chất là phương pháp giáo viên thay thế học viên qua bài giảng là chủ yếu. Hậu quả là đã tạo ra cho người giảng sức ì, thiếu năng động, chậm thích nghi với tình hình thực tiễn. Về phía học viên tính chủ động, sáng tạo thấp, việc tự nghiên

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.


cứu, tự học chưa trở thành thói quen hứng thú của mọi người. Xu hướng học tập để trả thi, để đạt điểm đủ mức trong bình xét thi đua bình xét Đảng viên, để đề bạt quân hàm còn “chế ngự” ở đa số người học. Tình trạng “thuộc” nhưng không hiểu bài, nắm được một số nội dung lý luận nhưng vận dụng vào thực tiễn còn rất lúng túng, giữa kiến thức sách vở với việc ứng dụng vào đời sống xã hội, hoạt động quân sự còn một khoảng cách khá lớn. Điều này có nguyên nhân là do sự hiểu biết của người dạy và người học về phương pháp giảng dạy, đặc biệt là kỹ năng thực hành còn phiến diện; chưa thấy được đầy đủ các đặc trưng và mối quan hệ giữa các phương pháp giảng dạy pháp luật. Hầu như đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo phương pháp mới; Phương pháp quản lý giáo dục theo yêu cầu của pháp luật, điều lệnh, điều lệ Quân đội chưa được chú ý đúng mức. Điều đó hạn chế đến chất lượng nhân cách của học viên sau khi ra trường, nhất là về năng lực tự chủ, tự điều khiển hành vi, ý chí tự rèn luyện của học viên. Điều đáng nói hiện nay là trong lãnh đạo, chỉ đạo mặc dù đã có sự thống nhất về nguyên nhân của thực trạng trên chủ yếu là do phương pháp quản lý giáo dục, song lại chưa có sự thống nhất trong quan niệm nhận thức về phương pháp đó. Có thể thấy qua hai xu hướng sau:

Giáo dục pháp luật cho học viên các trường sĩ quan quân đội ở Việt Nam hiện nay - 9

Xu hướng thứ nhất: Nặng về sử dụng những biện pháp hành chính khắt khe với học viên. Không ít cán bộ quản lý cấp tiểu đoàn, đại đội, trung đội học viên coi việc thi hành “bất di bất dịch” mệnh lệnh của mình là tiêu chuẩn cao nhất của kỷ luật quân sự. Xuất phát từ nhận thức không đầy đủ về lớp trẻ ngày nay, họ cho rằng cần phải đặt ra những “yêu cầu cao” nghiêm

khắc với học viên, không coi học viên là những chủ thể có ý thức thật sự. Yêu cầu cao là một nguyên tắc giáo dục phù hợp với yêu cầu của kỷ luật quân sự, song “yêu cầu cao” chỉ trở thành hiện thực một khi học viên cảm thấy yêu cầu đó trở thành nhu cầu tự thân ở mỗi người. Ngưỡng của sự áp đặt luôn luôn là sự thui chột ý thức tự giáo dục trong sáng thay vào đó là sự chấp hành một


cách máy móc, khiên cưỡng những mệnh lệnh hành chính, dễ gây ra những mâu thuẫn ngấm ngầm. Sự dồn nén thường là nguyên nhân của những xung đột tâm lý, nhất là trong quan hệ chỉ huy và phục tùng ở các trường hiện nay. Phần lớn các học viên được hỏi cho rằng không nên sử dụng quá liều lượng những biện pháp hành chính đơn thuần.

Xu hướng thứ hai: Coi trọng thuyết phục, nêu gương trong quản lý giáo dục. Ngược với xu hướng trên, xu hướng này đã đánh giá quá cao người học, hoặc là không hiểu hết họ, dẫn đến cách lựa chọn là đối xử với học viên thật mềm mỏng, tìm cách bảo ban, thậm chí dỗ dành họ. Nếu không đi sâu vào bản chất của tình huống giáo dục mà chỉ nhìn bề ngoài thì ai cũng có thể kết luận đấy là điều thể hiện sự “tôn trọng nhân cách” và chủ nghĩa nhân đạo trong giáo dục. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng sự thuyết phục và nêu gương chỉ thành công khi nó phù hợp với thực tiễn cách mạng, đời sống thực tế, không có khoảng cách giữa lời nói và việc làm, lý luận với thực tiễn. Điều này thật khó, nhất là trong điều kiện hiện nay, đôi khi rất khó khắc phục khi những bất cập trong giáo dục diễn ra. Hậu quả của việc tuyệt đối hóa thuyết phục và nêu gương sẽ không lường hết được một khi chủ thể giáo dục không đủ lý lẽ thuyết phục, cũng như tấm gương mà họ nêu ra (trong đó có thể là bản thân họ lại có những khiếm khuyết nào đó thuộc về cá tính, nhân cách).

Nhìn chung, các cán bộ quản lý GDPL thường dao động giữa hai xu hướng trên, thể hiện sự lúng túng trong lựa chọn phương pháp sư phạm. Thực trạng trên đây là kết quả của sự thiếu hiểu biết những vấn đề lý luận thuộc khoa học tâm lý và giáo dục, hoặc là sự ứng dụng máy móc những khoa học đó vào thực tiễn GDPL, trong khi học viên lại bị hạn chế về trình độ, kỹ năng và thói quen GDPL, phần lớn còn lúng túng trong việc tự chọn những giá trị để theo đuổi. Hiện nay ở một số trường SQQĐ đã thấy rõ con đường tuyên truyền, áp đặt một chiều, làm gương một cách máy móc chung chung, hoặc


quản lý học viên một cách khắt khe bằng những mệnh lệnh hành chính đơn thuần không mang lại hiệu quả giáo dục cao; rằng cần phải đi vào đời sống và hoạt động của học viên, làm cho họ trở thành chủ thể tự giáo dục; phải bằng tổ chức và điều khiển hoạt động giao tiếp của học viên để đạt tới sự tự tổ chức, điểu khiển ý thức và hành vi của mỗi thành viên.

Một hạn chế dễ thấy ở các trường SQQĐ hiện nay là các phương pháp GDPL được tiến hành trong điều kiện mà phương tiện thông tin đại chúng, những phương tiện nghe nhìn khác còn thô sơ, ít được sử dụng, hoặc chưa có, do đó chưa thực sự phát huy được tính tích cực nhận thức về pháp luật của học viên. Hơn nữa, các yếu tố này thường không được kết hợp chặt chẽ với nhau để tạo ra lực liên kết. Phần lớn các chủ thể GDPL ít chú ý tới phương tiện GDPL.

2.5. Những nguyên nhân cơ bản của những thành tựu và hạn chế trong hoạt động giáo dục pháp luật cho học viên các trường sĩ quan quân đội

Việc triển khai công tác GDPL ở các trường SQQĐ trong những năm gần đây đã có những thành tựu đáng kể; hoạt động giáo dục đã dần đi vào nền nếp; việc chấp hành pháp luật, kỷ luật quân đội của học viên đã có nhiều tiến bộ, trình độ hiểu biết pháp luật, thực hiện pháp luật, ý thức pháp luật và trình độ văn hóa pháp lý của tập thể học viên đã được nâng lên rõ rệt.

Tuy nhiên, công tác đó vẫn còn nhiều tồn tại, so với yêu cầu hiện nay thì còn hết sức bất cập. Nguyên nhân cụ thể của từng vấn đề đã được luận văn phân tích ở trên; phần này luận văn chỉ khái quát về nguyên nhân cơ bản của những thành tựu và hạn chế được rút ra từ thực trạng trên.

2.5.1 Nguyên nhân của những thành tựu

Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của đảng ủy, ban giám hiệu; sự phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng trong các trường SQQĐ.

Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên những thành công, ưu


điểm trong GDPL cho học viên các trường SQQĐ là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng uỷ, Ban giám hiệu các các trường SQQĐ. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn đó thể hiện ở nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với ý thức chấp hành pháp luật, và bồi GDPL cho học viên. Đảng uỷ, Ban giám hiệu các trường SQQĐ đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, kế hoac̣ h về GDPL để thực hiện thống nhất ở các đơn vị học viên; giải quyết đồng bộ một loạt vấn đề về cơ chế, thực hiện chính sách, tổ chức lực lượng, xây dựng quy trình bồi dưỡng cho học viên; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhân rộng những điển hình tiên tiến và kịp thời phát hiện giúp đỡ những đơn vị học viên gặp khó khăn trong GDPL.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ, Ban giám hiệu, các cơ quan chức năng của các trường SQQĐ đã phát huy tốt vai trò tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo, phối hợp với các đơn vị học viên trong tổ chức các hoạt động GDPL cho học viên. Các cơ quan chính trị, cơ quan huấn luyện, cơ quan văn phòng đã tích cực hướng về đơn vị học viên, tăng cường bám nắm đơn vị, nắm chắc đối tượng học viên, kiểm tra hướng dẫn, định hướng học viên học tập, rèn luyện theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Kết quả hình thành, phát triển VHPL của học viên các trường SQQĐ trong những năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng uỷ, Ban giám hiệu các trường SQQĐ là nguyên nhân cơ bản tạo nên những thành công, ưu điểm trong bồi dưỡng

GDPL cho học viên đào tao si ̃ quan.

Hai là, sự nỗ lực, tích cực, chủ động sáng tạo của cấp uỷ, chỉ huy, của cán bộ và đảng viên ở các đơn vị quản lý học viên.

Sự nỗ lực, chủ động sáng tạo của bản thân các đơn vị học viên là nguyên nhân trực tiếp của những ưu điểm, thành công trong bồi dưỡng GDPL cho học viên. Vấn đề này được thể hiện ở sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động của lãnh đạo, chỉ huy và tập thể đơn vị học viên đối với tầm


quan trọng của GDPL và bồi dưỡng VHPL.

Thực trạng GDPL cho học viên cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của cấp uỷ, tổ chức đảng các đơn vị học viên. Chính nhờ nhận thức đúng đắn vai trò của GDPL, cấp uỷ, tổ chức đảng đã xuất phát từ tình hình, đăc điểm của đơn vị, trình độ nhận thức của đối tượng, đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân mạnh, yếu về ý thức pháp luật, kỷ luật của học viên, trên cơ sở đó đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, vai trò xung kích của đoàn thanh niên trong tổ chức các hoạt động GDPL. Tổ chức giáo dục nâng cao trình độ VHPL, tình cảm và hành vi thói quen chấp hành nghiêm pháp luật cho học viên; lãnh đạo phát huy vai trò trách nhiệm, nâng cao năng lực quản lý, chỉ huy duy trì kỷ luật, năng lực tiến hành bồi dưỡng GDPL của đội ngũ cán bộ; lãnh đạo, phát huy quyền làm chủ của học viên, thực hiện thưởng phạt nghiêm minh trong tổ chức các hoạt động GDPL. Có thể khẳng định, sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp uỷ, tổ chức đảng các đơn vị học viên; ý thức trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị là nguyên nhân cơ bản trực tiếp của những ưu điểm GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ.

Ba là, học viên ở các trường SQQĐ đã từng bước xác định đúng động cơ phấn đấu, xác định được quyết tâm học tập, rèn luyện, chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật.

Đội ngũ học viên đào tao si ̃ quan là chủ thể trực tiếp tự bồi dưỡng,

GDPL. Môi trường VHPL quân sự lành mạnh, có kỷ luật nghiêm ở các trường SQQĐ đã tạo thuận lợi cho đội ngũ học viên phát huy khả năng, tiềm lực vốn có của mình trong tiếp nhận, học hỏi và tự bồi dưỡng nâng cao trình độ VHPL. Học viên ở các trường SQQĐ luôn được tuyển chọn chặt chẽ theo quy chế của Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Quốc phòng. Đó là những người có phẩm chất chính trị đạo đức tốt, trình độ nhận thức nhanh, có nguyện vọng và định


hướng đúng đắn. Trước khi nhập học, họ được gia đình và địa phương, xã hội giáo dục một cách cơ bản. Khi bước vào đào tạo tại các trường SQQĐ, họ đã được học tập, rèn luyện qua một năm tạo nguồn. Do đại đa số học viên đã xác định rõ xu hướng nghề nghiệp, động cơ phấn đấu rèn luyện trở thành sĩ quan phục vụ lâu dài trong Quân đội, thường xuyên phát huy tinh thần cầu thị, nỗ lực, nhạy bén, tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội những tri thức pháp luật, hình thành tình cảm, ý chí quyết tâm chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật ở mọi lúc, mọi nơi, làm cho quá trình tự bồi dưỡng, GDPL trở thành nhu cầu không thể thiếu được với học viên. Sự tự giác, tích cực, chủ động trong quá trình tự bồi dưỡng, tự giáo dục của đội ngũ học viên đã trở thành động lực tích cực, một nguyên nhân quan trọng trực tiếp quyết định đến hiệu quả của quá trình GDPL cho học viên các trường SQQĐ.

2.5.2. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế

Môt

là , chưa có một cơ chế lãnh đạo, chỉ huy thống nhất và phối hợp

đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu, thực hiện công tác phổ biến, GDPL cho học viên các trường SQQĐ . Công tác này còn mang tính tự phát, thiếu kế hoạch, không được sơ, tổng kết một cách thỏa đáng để tìm ra những nguyên nhân, bài học cần thiết cho hoạt động tiếp theo.

Hai là, các nhà trường SQQĐ thiếu một chương trình chuẩn về giảng dạy pháp luật cũng như giáo trình chuẩn thống nhất cho môn học này. Trong chương trình hiện nay nội dung một số bài còn trùng lặp với nội dung của một số môn học khác, trong khi nội dung thiết thực về pháp luật về quốc phòng, đặc điểm của các ngành luật trong Quân đội thì lại ít hoặc chưa được giảng dạy.

Ba là , thiếu đội ngũ cán bộ làm công tác giảng dạy, GDPL vừa có kiến thức về pháp luật vừa có khả năng sư phạm cần thiết; chưa có kế hoac̣ h, biện pháp thích hợp để đào tạo đội ngũ giáo viên pháp luật cho các học viện, nhà

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/05/2022