Theo số liệu của IMF ngành ngân hàng ở Việt Nam đã mở rộng đáng kể những năm gần đây, tổng tài sản của ngành đã tăng gấp 2 lần trong giai đoạn 2007-2010 từ 1057 tỷ đồng( 52,4tỷ USD) lên 2669 nghìn tỷ đồng(128 tỷ USD), con số này được dự báo sẽ tăng lên 3667 nghìn tỷ đồng(175,4tỷ USD) vào cuối năm 2012. Việt Nam cũng nằm trong danh sách 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng tài sản ngân hàng nhanh nhất theo thống kê của The Banker, đứng vị trí thứ hai chỉ sau Trung quốc. Trong đó Eximbank là ngân hàng duy nhất của Việt Nam nằm trong tốp 25 ngân hàng có tốc độ tăng nhanh nhất về tài sản trong năm 2010, đứng ở vị trí thứ 13[74]. Thứ hai, hệ thống ngân hàng liên tục duy trì tăng trưởng lợi nhuận và khả năng sinh lời khá tốt bất chấp khủng hoảng tài chính trong nước, khu vực và thế giới, mức trung bình tăng trưởng lợi nhuận của 8 NHTM hàng đầu của Việt Nam là 46% trong năm 2008, 59% trong năm 2009 và 31% trong năm 2010, kết quả kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài không được công bố rộng rãi, tuy nhiên đại diện của khối này là HSBC Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 40% lợi nhuận sau thuế năm 2010.
Hệ thống ngân hàng lớn mạnh về vốn, lợi nhuận gia tăng chứng tỏ năng lực kinh doanh của các ngân hàng đã có sự phát triển nhất định về trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ và quản trị rủi ro, đây là cơ sở điều kiện để các NHTM có thể tham gia với TTNH khu vực và thế giới.
3.1.1.3. Căn cứ mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Tuy Việt Nam mới gia nhập WTO được hơn 3 năm nhưng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã trải qua gần 20 năm, từ đầu thập niên 1990 đã bắt đầu tiếp nhận luồng vốn FDI và trở thành thành viên ASEAN vào năm 1995. Từ năm 1996, nước ta bắt đầu thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung(CEPT), nhằm thiết lập khu vực thương mại tự do trong khối ASEAN(AFTA). Một cột mốc quan trong trong quá trình hội nhập là vào năm 2000 Việt Nam ký và thực hiện năm 2001 Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ với những nội dung và chuẩn mực cam kết sát với nội dung WTO. Tiếp đến là Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc
được ký kết vào năm 2002, nội dung chính của Hiệp định là xây dựng một khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm. Lĩnh vực tự do hóa bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư cũng như các hợp tác khác về tài chính, ngân hàng. Vào năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO, phải thực hiện một số nội dung liên quan đến thị trường tài chính như sau: cam kết mở cửa thị trường thông qua cắt giảm thuế quan; chính sách giá cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các qui định của WTO, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo tiêu chí thương mại, nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào họat động của doanh nghiệp, chấp nhận điều khoản phi thị trường trong khoảng thời gian tối đa là 12 năm, cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, kiểm toán, kế toán, bảo hiểm…
Tháng 12/2008 khu vực thương mại tự do ASEAN-Nhật Bản ( AJFTA) được thiết lập và có hiệu lực ngay với một số cam kết. Vào đầu năm 2009, khu vực thương mại tự do ASEAN-Úc-Newzealand( ACERFTA) được ký kết. Các Hiệp định tự do thương mại khu vực song phương có mức độ mở cửa còn cao hơn cam kết trong WTO.
Qua những mốc lịch sử trên, có thể thấy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hoá thương mại, đầu tư và chuyển sang thể chế kinh tế thị trường của Việt Nam đang diễn ra ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược. Hội nhập kinh tế chúng ta sẽ có điều kiện tốt hơn để mở rộng họat động ra nước ngoài và thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng hơn vì được đối xử bình đẳng tốt hơn
Có thể bạn quan tâm!
- Nguồn Cầu Ngoại Tệ Trên Thị Trường Ngoại Tệ Không Chính Thức
- Những Hạn Chế Của Thị Trường Ngoại Hối Việt Nam
- Sự Tồn Tại Và Ảnh Hưởng Mạnh Mẽ Của Thị Trường Ngoại Tệ Không Chính Thức
- Khuyến Khích Thành Lập Các Công Ty Môi Giới, Công Ty Tư Vấn
- Về Tự Do Hóa Tài Khoản Vãng Lai Và Tự Do Hóa Tài Khoản Vốn Theo Lộ Trình
- Tăng Cường Kiểm Soát, Hạn Chế Và Tiến Tới Loại Bỏ Dần Hoạt Động Của Thị Trường Ngoại Tệ Không Chính Thức
Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.
Thực tế cho thấy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách đáng kể theo hướng thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính – ngân hàng trước yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời xây dựng cơ sở tài chính hạ tầng để sẳn sàng tiếp nhận những cơ hội cũng như chuẩn bị ứng phó với những thách thức của quá trình mở cửa mang đến. TTNH Việt Nam là một trong những cơ sở hạ tầng tài chính chịu nhiều tác động của quá trình hội nhập đó, đánh giá những yếu tố thuận lợi cũng như bất lợi do quá trình hội nhập
tài chính mang đến để từ đó có thể tận dụng những cơ hội nhằm thúc đẩy TTNH phát triển đồng thời hạn chế những rủi ro do quá trình mở cửa mang đến.
3.1.2. Định hướng phát triển TTNH
3.1.2.1. Phát triển TTNH là bước đi tất yếu trong quá trình hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính của Việt Nam
Hội nhập kinh tế song hành với quá trình hội nhập về tài chính, vì thế Việt Nam phải có những bước chuẩn bị để đón nhận những thời cơ lẫn những thách thức của quá trình hội nhập đối với hệ thống tài chính. Thực tế, Việt Nam chưa có một TTTC hoàn thiện mà đang trong quá trình xây dựng và phát triển, nhưng muốn có TTTC phát triển thì phải phát triển đồng thời thị trường vốn và TTNH.
TTNH hoạt động hiệu quả sẽ làm tăng thanh khoản tạo điều kiện cho thị trường vốn hoạt động sôi nổi, TTNH không chỉ hỗ trợ cho các nhu cầu thanh toán ngoại tệ cho các giao dịch vãng lai và các giao dịch vốn, thị trường còn cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, và là một kênh hỗ trợ cho Chính phủ điều tiết thị trường tiền tệ. Một TTNH phát triển sâu rộng sẽ hỗ trợ cho tất cả các mục tiêu của chính sách ngoại hối, từ đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán, nâng cao khả năng tự do chuyển đổi của VND, đến việc điều hành chính sách tỷ giá mục tiêu có hiệu quả. Ngược lại, thị trường vốn, thị trường tiền tệ phát triển sẽ tạo điều kiện cho TTNH hoạt động hiệu quả hơn.
Vì thế, chiến lược phát triển TTNH phải nằm trong chiến lược tổng thể của thị trường tài chính.
Dự báo đến năm 2020 TTTC Việt Nam sẽ phát triển mạnh, ổn định và hội nhập sâu vào TTTC quốc tế. Hệ thống ngân hàng sẽ có những cải cách mạnh mẽ sau khủng hoảng, có thể sẽ đưa đến việc thành lập các tập đoàn tài chính mới hội nhập sâu rộng vào thị trường tài chính quốc tế, có qui mô vốn lớn, hoạt động đa năng.
Trong dài hạn, với điều kiện kinh tế tăng trưởng bền vững, khu vực tài chính Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện tốt để tăng trưởng, mở rộng hoạt động,
tăng cường sức cạnh tranh và mở rộng ra thị trường quốc tế. Sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và quốc tế, và việc tiến hành tự do hóa tài chính từng bước cũng yêu cầu hệ thống tài chính trong nước phải có sự điều chỉnh trong cơ cấu hoạt động, năng lực quản trị rủi ro, tăng cường khả năng chống đỡ đối với các cú sốc từ bên trong và bên ngoài, để có thể phát triển bền vững.
3.1.2.2. Xây dựng hệ thống tài chính an toàn và hội nhập
Trong quá trình phát triển TTNH cần chú trọng đến nền tài chính còn sơ khai doanh số còn thấp, kiến thức và kinh nghiệm của ngân hàng về công cụ giao dịch phái sinh phức tạp như quyền chọn, giao dịch tiền tệ tương lai cũng như trình độ kiến thức kinh tế thị trường của doanh nghiệp, cá nhân còn hạn chế. Vì thế, phản ứng của nền kinh tế trước những chính sách vĩ mô, trước sự tác động của khủng hoảng kinh tế sẽ có những diễn biến khó lường. Những nhà kinh doanh, đầu tư, người dân thường bị yếu tố tâm lý chi phối mạnh, dẫn dắt và ứng xử theo bầy đàn. Điều này cũng do môi trường có yếu tố thông tin bất đối xứng, nguồn dữ liệu chưa được kiểm định, không thống nhất nhau giữa các cơ quan thông tin ảnh hưởng mạnh đến việc phân tích và dự báo về diễn biến thị trường.
Để phát triển TTTC Việt Nam hoạt động an toàn và hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; giám sát các luồng vốn; mở cửa khu vực tài chính theo các cam kết quốc tế, cần có những giải pháp cơ bản về cơ chế và giám sát thị trường tài chính nhằm hạn chế rủi ro.
Căn cứ vào những điểm tương đồng về thể chế chính trị và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, và cùng xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường, nước ta có thể dựa vào kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình mở cửa và phát triển TTNH. Đáp ứng yêu cầu hội nhập nhưng vẫn đảm bảo độc lập trong thực thi chính sách theo mục tiêu đề ra.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, mức độ tự do hóa các giao dịch ngoại hối của Việt Nam hiện nay đã ngang với các nước có dự trữ ngoại hối lớn, đủ sức can thiệp và đáp ứng cho thị trường. Pháp lệnh Ngoại hối của Việt Nam ban hành
năm 2005 được đánh giá là có độ mở lớn hơn điều lệ quản lý ngoại hối của Trung Quốc ban hành năm 2008, các quy định về giao dịch vãng lai có độ mở ngang nhau, các giao dịch vốn được thực hiện tự do hơn và rất thông thoáng.
Tuy nhiên, Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển chưa thực sự bền vững, lạm phát cao, dự trữ ngoại hối của nhà nước còn mỏng, nhập siêu tăng qua các năm, nếu hoạt động ngoại hối được tự do quá, sẽ gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước, gây sức ép lên tỷ giá và ngăn cản việc tăng dự trữ ngoại hối.
Dựa vào cơ sở và định hướng trên, để phát triển TTNH Việt Nam trong tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế, luận án đưa ra những biện pháp sau
3.2. Những biện pháp phát triển TTNH trong hội nhập kinh tế
3.2.1. Hoàn thiện TTNH theo hướng hiện đại và hội nhập
3.2.1.1. Minh bạch hóa thông tin trên thị trường
Phát triển TTNH theo hướng ngày càng hoàn thiện dần những đặc điểm cơ bản vốn có của một TTNH là thị trường hoạt động hiệu quả, mà theo đó những thông tin tác động đến tỷ giá được những nhà kinh doanh tiền tệ, những người có những giao dịch liên quan đến ngoại tệ có thể tiếp cận dễ dàng. Muốn vậy, cần thực hiện minh bạch hóa thông tin trên TTNH, thông qua các hình thức:
(1)NHNN phải là nơi cung cấp thông tin chính thống làm cơ sở dữ liệu để hoạch định kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Đồng thời những cơ quan chức năng khác cũng phải xác định cập nhật và cung cấp thông tin thuộc trách nhiệm của cơ quan và nêu rõ cách tính toán và sai số thống kê (nếu có). Ngoại trừ những thông tin ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, còn những thông tin liên quan đến hoạt động thị trường cần phải được công khai tạo điều kiện cho những người có liên quan tiếp cận dễ dàng nhằm đảm bảo sự cạnh tranh hoàn hảo cho thị trường.
Cụ thể với giải pháp này NHNN nên thường xuyên cập nhật thông tin trên trang Web của NHNN, công khai các thông tin cần thiết về chính sách tiền tệ, về mục tiêu tăng trưởng, lạm phát, để giúp doanh nghiệp và người dân hiểu đúng,
hiểu đầy đủ bản chất của mọi diễn biến trong nền kinh tế nói chung và thị trường ngoại tệ nói riêng và trên cơ sở đó có ứng xử phù hợp.
Trên TTNH Việt Nam còn thiếu vắng vai trò của các công ty tư vấn tài chính chuyên nghiệp, vì thế đồng thời với quá trình minh bạch hóa thông tin nên khuyến khích thành lập các công ty phân tích và dự báo tỷ giá chuyên cung cấp thông tin liên quan đến sự thay đổi của tiền tệ, đây cũng là một biện pháp hổ trợ những nhà đầu tư có vốn nhưng không có kinh nghiệm kinh doanh.
(2)NHNN khi xây dựng chính sách về tỷ giá, nên có những cuộc tranh luận để xác định mức tỷ giá thích hợp cho từng thời điểm. Bởi vì, khi đưa ra bất cứ mức tỷ giá nào mà không có lý do chính đáng, không mang tính thuyết phục cao và giải thích rõ ràng sẽ tạo ra sự hoài nghi và bị tâm lý đám đông chi phối làm thị trường hỗn loạn, mục tiêu chính sách có thể bị phá sản.Trong những trường hợp có những luồng dư luận gây tâm lý xáo trộn làm thị trường biến động bất thường, NHNN phải kịp thời thông tin rộng rãi trên những phương tiện truyền thông và trong những trường hợp hợp cần thiết phải công khai mức dự trữ ngoại hối để người dân, doanh nghiệp an tâm về sự nhất quán trong quá trình thực thi chính sách của nhà nước.
3.2.1.2. Mở rộng các chủ thể kiến tạo thị trường
Để TTNH là thị trường có hiệu quả phải có đầy đủ các chủ thể với các chức năng khác nhau tham gia thị trường ngoại hối. Mỗi chủ thể với chức năng là nhà tạo lập thị trường, nhà môi giới, tư vấn, đầu cơ và chức năng can thiệp thị trường của NHNN sẽ làm cho thị trường hoạt động sôi nổi, tính thanh khoản cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của những thành viên tham gia và tác động ngược lại làm cho thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
Muốn vậy, NHNN mở rộng số lượng các thành viên tham gia TTNH, nới lỏng các qui định và thủ tục rườm rà để lôi kéo nhiều tổ chức tài chính tham gia thị trường. Đồng thời, để TTNH phát triển phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế, ngoài thành viên là các tổ chức tín dụng cần phải mở rộng thêm cho những tổ chức kinh tế, cá nhân có thể tham gia thông qua các tổ chức môi giới. Việc đầu tư
vào ngoại tệ cũng tương tự như việc đầu tư vào các loại tài sản khác, nhà đầu tư có thể mở tài khoản giao dịch ngoại tệ tại các công ty môi giới tương tự như tài khoản chứng khoán rồi nạp VND hoặc USD vào tài khoản và giao dịch mua bán ngoại tệ. Khi muốn rút tiền, họ sẽ phải bán ngoại tệ ra thị trường để lấy VND. Bằng cách này, tuy họ có tài khoản đầu tư bằng ngoại tệ nhưng trên thực tế ngoại tệ không chảy ra khỏi hệ thống ngân hàng.[65]
Ngoài ra, NHNN nên nhìn nhận chính xác hơn về khái niệm đầu cơ trên TTNH, theo lý thuyết hoạt động cơ ngoại tệ là tạo trạng thái ngoại tệ mở với mục đích để kiếm lời thông qua sự biến động của tỷ giá và chấp nhận rủi ro nếu tỷ giá biến động ngược với dự đoán, có thể ví von hành động của họ là tấm đệm để thẩm thấu những rủi ro mà những người bảo hiểm rủi ro tỷ giá bán lại trên thị trường. Một thị trường có người bán sẽ có người mua thì thị trường mới hoạt động sôi nổi và tính thanh khoản mới cao.
Tuy nhiên, để thị trường hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính cần phải có hệ thống giám sát, theo dõi phát hiện kịp thời những hành động đầu cơ gây rối loạn thị trường, đây là điều không thể tránh khỏi khi mở cửa thị trường chúng ta phải chuẩn bị đón nhận tất cả những cơ hội lẫn thách thức do quá trình mở cửa mang đến. Vấn đề là nên chủ động để đối phó, trên cơ sở học tập kinh nghiệm trong quản lý và điều hành TTNH của những quốc gia tiên tiến trên thế giới.
3.2.1.3. Hoàn thiện các sản phẩm ngoại hối phái sinh
Giao dịch ngoại hối phái sinh đã xuất hiện ở Việt Nam khoảng 10 năm, tuy nhiên như đã nhận xét trong chương 2, TTNH phái sinh hầu như dậm chân tại chỗ chưa phát triển, ngoài những nguyên nhân khách quan còn do yếu tố chủ quan là những giao dịch phái sinh được thực hiện chưa hoàn toàn phù hợp với những tập quán quốc tế, chưa phát huy hết những tiện ích cho người sử dụng. Vì thế để phát triển TTNH phái sinh, cần phải hoàn thiện các sản phẩm này với những biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, mở rộng kỳ hạn đối với giao dịch kỳ hạn
Theo quyết định 648/2004/QĐ-NHNN, giao dịch kỳ hạn có kỳ hạn tối thiểu là 3 ngày và thời hạn tối đa là 365 ngày. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có những khoản đầu tư, thanh toán bằng ngoại tệ có thời hạn dài hơn 365 ngày, nếu khách hàng có nhu cầu sử dụng hợp đồng kỳ hạn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá trong những trường hợp này thì họ không thể thực hiện được. Trong khi trên thế giới kỳ hạn trong các giao dịch kỳ hạn này đều do hai bên tham gia tự thỏa thuận. Như vậy, để tránh tình trạng khách hàng có nhu cầu sử dụng hợp đồng kỳ hạn nhưng lại không thực hiện được do hạn chế về quy định kỳ hạn tối đa là 365 ngày, NHNN cần xem xét việc dỡ bỏ kỳ hạn tối đa của giao dịch kỳ hạn để các chủ thể tham gia giao dịch chủ động hơn trong việc sử dụng các hợp đồng kỳ hạn. Điều này không những tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia thị trường với mục đích kinh doanh, đầu tư hay bảo hiểm có nhiều kỳ hạn để lựa chọn và đáp ứng nhu cầu đa dạng trong kinh doanh có như vậy các NHTM mới có thể phát triển sản phẩm và tăng cường doanh số giao dịch.
Thứ hai, để các NHTM được chủ động tính toán tỷ giá kỳ hạn
Trong các giao dịch ngoại hối phái sinh được cho phép sử dụng tại Việt Nam giao dịch ngoại hối kỳ hạn có khung pháp lý quy định khá rõ ràng, và trong những năm gần đây đã được hoàn thiện, cách tính tỷ giá kỳ hạn đã dần phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, để tỷ giá này phù hợp với ý nghĩa là tỷ giá giao ngay kỳ vọng trong tương lai thì các yếu tố hình thành nên tỷ giá phải là những yếu tố thị trường tác động trực tiếp lên tỷ giá, đó là: tỷ giá giao ngay, lãi suất thị trường của 2 đồng tiền liên quan và kỳ hạn tương ứng. Nhưng theo cách xác định hiện tại thì lãi suất được sử dụng là lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất mục tiêu của USD do Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED) công bố. Dù cách tính này tiến bộ hơn so với cách quy định mức gia tăng cho phép đối với mỗi kỳ hạn cố định được áp dụng từ trước năm 2004 tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp.
Đó là, lãi suất để tính tỷ giá kỳ hạn không phải là lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của VND và USD, nghĩa là không do cung cầu của thị trường tiền tệ