Thực Trạng Phát Triển Năng Lực Giáo Dục Địa Lí Cho Sinh Viên

50


Sinh viên đạt được các thành tố của năng lực GDĐL ở mức độ “thành thạo một phần” khi điểm tự đánh giá trung bình chung là 3,37 và điểm GiV đánh giá là 3,7/5. Trong đó, thành tố Năng lực đặc thù của khoa học địa lí có mức điểm đánh giá cao nhất (SV tự đánh giá 3,42; GiV đánh giá 3,81), tiếp đó là Năng lực bổ trợ (điểm trung bình 3,37 và 3,63), thành tố Năng lực vận dụng tri thức KHGD vào GDĐL (gọi tắt là năng lực phương pháp) có mức đánh giá thấp hơn 3,34 của SV và 3,65 của GiV. So sánh với kết quả tự đánh giá của GV phổ thông, phân phối này cũng có kết quả gần tương tự, lần lượt là 3,58 – 3,29 – 3,48. Như vậy, trong cấu trúc 3 hợp phần của năng lực GDĐL mức độ đạt được năng lực đặc thù địa lí vẫn cao hơn so với năng lực phương pháp. Có nghĩa là SV cảm thấy tự tin hơn ở năng lực địa lí của họ so với năng lực về phương pháp và GiV cũng đánh giá như vậy.

Phân tích các chỉ báo của thành tố năng lực phương pháp để chi tiết hóa kết quả trên. Số liệu phản ánh một thực tế mà SV và GiV đều chung quan điểm là: SV thể hiện mức độ thành thạo cao hơn ở khả năng Vận dụng PP&KT dạy học địa lí; Thiết kế và sử dụng các phương tiện GDĐL; Thiết kế và tổ chức được các kế KHBD trong GDĐL. Ngược lại, các chỉ báo: Thực hiện được các nghiên cứu về khoa học địa lí, khoa học GDĐL; Giải thích được chương trình GDPT và chương trình môn Địa lí; Phát triển chương trình và Xây dựng được kế hoạch đánh giá GDĐL có mức độ thành thạo thấp hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận định ban đầu của NCS và thực tế đào tạo ở các cơ sở tiến hành khảo sát.

Hình 1 10 Đánh giá của GiV SV về mức độ đạt được các chỉ báo của 1

Hình 1.10. Đánh giá của GiV, SV về mức độ đạt được các chỉ báo của thành tố năng lực vận dụng tri thức KHGD vào GDĐL

51


Để chính xác các nhận định trên, NCS thực hiện phân tích mối liên hệ giữa ba đối tượng khảo sát bằng phân tích phương sai 1 yếu tố (ANOVA). Kết quả giá trị Sig. của kiểm định Levene là 0,522 (>0,05) phương sai của các nhóm giá trị là đồng nhất, khi đó, sử dụng chỉ số Sig ở bảng ANOVA là 0,004 (<0,05), kết luận: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đạt được các chỉ báo năng lực GDĐL giữa 3 nhóm đối tượng được khảo sát. So sánh điểm trung bình có thể thấy: Mức điểm tương đồng đối với từng thành tố năng lực trong đánh giá của GiV, SV và GV. GiV đánh giá cao hơn mức tự đánh giá của SV và GV phổ thông ở hầu hết các tiêu chí.

Thực hiện so sánh kết quả tự đánh giá của GV và SV nhận thấy: GV phổ thông tự đánh giá mức độ đạt được các chỉ báo năng lực đặc thù và năng lực phương pháp cao hơn tự đánh giá của SV. Tuy nhiên, khả năng ứng dụng CNTT&TT và sử dụng ngoại ngữ có mức điểm thấp nhất 3,29 so với 3,37 của SV. Kinh nghiệm công tác mang lại vốn kiến thức, kĩ năng địa lí và PPDH phong phú cho GV, tuy nhiên khả năng tiếp cận với CNTT&TT cũng như sử dụng ngoại ngữ có phần hạn chế hơn. Điều này một phần có thể giải thích được dựa trên tỉ lệ khá lớn GV tham gia khảo sát có thâm niên công tác. Thực tế này đặt ra một câu hỏi cần giải quyết là: Làm thế nào để trang bị cho người học khả năng để họ có thể cập nhật, cải tiến và tự nâng cao năng lực công nghệ và ngoại ngữ một cách bền vững?

1.5.3. Thực trạng phát triển năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên

1.5.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển năng lực giáo dục địa lí

Các yếu tố tác động đến việc hình thành vào phát triển năng lực GDĐL của SV bao gồm: GiV, bản thân SV, chương trình, phương thức đào tạo, học liệu, cơ sở vật chất kĩ thuật và kiểm tra đánh giá. Các yếu tố này được khảo sát trên một số phương diện cơ bản thông qua những nhận định cụ thể của NCS về cùng một câu hỏi: “Anh/chị đồng ý đến mức độ nào các nhận định sau đây về các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển năng lực GDĐL cho SV tại Khoa/ bộ môn?” theo 5 mức độ từ “hoàn toàn không đồng ý” đến “hoàn toàn đồng ý”. Kết quả thống kê được mô tả trong (bảng 1.2).

Thực hiện kiểm định ANOVA của 3 nhóm đối tượng để xem xét có hay không sự khác biệt thống kê giữa nhận định của GiV, SV, GV về cùng một vấn đề. Kết quả cho thấy: giá trị Sig của Levene (0.344) và Sig của ANOVA (0.066) đều lớn hơn 0.05. (phụ lục 1.6). Kết luận: Có sự đồng nhất về đánh giá mức độ tác động của các yếu tố tới việc hình thành và phát triển năng lực GDĐL giữa GiV,GV và SV. Thực hiện kiểm định tương tự giữa GV phổ thông được đào tạo theo quy chế tín chỉ và niên chế, giá trị Sig của Levene (0.094) và Sig của ANOVA (0.926) đều lớn hơn 0.05. Cho phép kết luận: Không có sự khác biệt về đánh giá mức độ tác động của các yếu tố tới việc hình thành

52


và phát triển năng lực GDĐL giữa hai nhóm GV này (phụ lục 1.6). Kiểm định trên tạo cơ sở cho việc phân tích kết quả khát quát cho cả ba nhóm đối tượng được khảo sát.

Bảng 1.2. Đánh giá mức độ tác động của các yếu tố đến việc hình thành và phát triển năng lực GDĐL cho SV



Các yếu tố tác động

Trung bình (Mean)

Giảng viên

Giáo viên

Sinh viên

TB

Giảng viên

4,48

4,12

4,18

4,16

GiV chuyên môn có nền tảng kiến thức địa lí sâu sắc và PPDH chuyên nghiệp.

4,48

4,14

4,19

4,18

GiV phương pháp có PPDH chuyên nghiệp và am hiểu

thực tiễn GDĐL ở phổ thông

4,53

4,13

4,21

4,18

GiV thể hiện khả năng hiểu SV và có khả năng truyền cảm hứng cho SV về ngành, nghề và bộ môn Địa lí

4,45

4,08

4,15

4,13

Sinh viên

4,08

3,90

3,92

3,92

SV thể hiện năng lực nhận thức, tư duy tốt

4,10

3,88

3,91

3,91

SV có phương pháp học tập và tự học tốt

4,13

3,93

3,90

3,93

SV thể hiện động cơ và nhu cầu học tập rõ ràng

4,00

3,90

3,94

3,92

Chương trình đào tạo

4,23

4,06

4,10

4,09

Nội dung cơ bản; cập nhật, thực tiễn, phù hợp với yêu cầu về năng lực của GV địa lí trong CT GDPT mới.

4,23

4,07

4,13

4,10

Định hướng tích hợp kiến thức chuyên môn và PPDH địa lí thể hiện trong thiết kế chương trình.

4,18

4,06

4,09

4,08

Phân bổ hợp lí thời lượng giảng dạy lí thuyết và thực hành trong tổng thể chương trình và từng học phần.

4,30

4,05

4,09

4,08

Phương thức đào tạo

4,33

4,09

4,12

4,11

Phương pháp đào tạo phát huy vai trò chủ động, tích cực

của SV thông qua tổ chức các HĐ học tập.

4,25

4,09

4,16

4,12

Sử dụng hiệu quả các PPDH phát triển năng lực GDĐL cho SV như PPDH vi mô, dạy học dự án…

4,38

4,10

4,12

4,13

Tổ chức thường xuyên các hoạt động trải nghiệm thực tế

dạy học địa lí ở trường phổ thông.

4,35

4,07

4,09

4,09

Học liệu, cơ sở vật chất kĩ thuật

4,08

3,95

4,00

3,97

Nguồn học liệu phục quá trình đào tạo được trang bị đầy đủ, SV, GiV có khả năng tiếp cận một cách dễ dàng.

4,18

4,01

4,09

4,04

Phòng thực hành NVSP được đầu tư để phục vụ việc luyện tập các kĩ năng dạy học.

4,00

3,87

3,95

3,90

Hạ tầng CNTT&TT, phương tiện dạy học được trang bị để hiện đại hóa quá trình đào tạo.

4,05

3,96

3,95

3,96

Kiểm tra đánh giá

4,31

4,06

4,12

4,10

Sử dụng đa dạng các hình thức, phương pháp, công cụ đánh giá việc học tập và rèn luyện của SV.

4,35

4,08

4,13

4,12

Kết quả đánh giá được sử dụng để điều chỉnh việc dạy và

học nhằm thúc đẩy quá trình cải tiến năng lực GDĐL

4,28

4,05

4,10

4,08

Giá trị trung bình mức độ tác độ các yếu tố

4,25

4,03

4,07

4,06

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 289 trang tài liệu này.

Với mức điểm đánh giá trung bình chung là 4,06 và giao động từ 3,97 đến 4,18 trên thang điểm 5 cho thấy: Các nhận định về các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát

53


triển năng lực GDĐL của SV được GiV, GV và SV “đồng ý”. Mức độ đồng ý với từng yếu tố từ cao xuống thấp lần lượt là: GiV (4,16), phương thức đào tạo (4,11), kiểm tra, đánh giá (4,10), chương trình đào tạo (4,09) và học liệu, cơ sở vật chất kĩ thuật (3,97).

Các nhận định về yếu tố GiV: GiV phương pháp có phương pháp giảng dạy chuyên nghiệp và am hiểu thực tiễn GDĐL ở phổ thông; GiV chuyên môn có nền tảng kiến thức địa lí sâu sắc và phương pháp giảng dạy tốt; GiV thể hiện khả năng hiểu SV và là người có khả năng truyền cảm hứng cho SV về ngành, nghề và bộ môn Địa lí được cả GiV, SV và GV đánh giá cao nhất lần lượt là 4,21, 4,19, và 4,15. Số liệu này cho thấy rằng GiV là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định chất lượng đào tạo và trên bình diện chung nhất đội ngũ này đã đáp ứng được kì vọng của SV và GV.

Về chương trình đào tạo, các nhận định được đánh giá cao với mức điểm 4,23, 4,10, 4,06 lần lượt của GiV, SV và GV phổ thông. Trong đó, Nội dung cơ bản; cập nhật, đảm bảo tính thực tiễn, phù hợp với yêu cầu về năng lực của GV địa lí trong chương trình GDPT mới được đánh giá cao hơn so với việc Phân bổ hợp lí thời lượng giảng dạy lí thuyết và thực hành trong tổng thể chương trình và từng học phần Định hướng tích hợp kiến thức chuyên môn và PPDH địa lí thể hiện trong thiết kế chương trình và đề cương học phần, 4,10 và 4,08. Kết quả này phù hợp với nhận định ban đầu là: mức độ tích hợp kiến thức chuyên môn và phương pháp giảng dạy, và giải quyết mối quan hệ giữa giảng dạy lí thuyết và thực hành luôn được cải tiến chậm hơn so với nội dung trong chương trình đào tạo SV sư phạm địa lí.

Về phương thức đào tạo, kết quả cho thấy: GiV đã làm tốt vai trò trong việc sử dụng phương pháp phát huy vai trò chủ động, tích cực của SV thông qua tổ chức các hoạt động học tập và giáo dục cũng như Sử dụng hiệu quả các PPDH phát triển năng lực GDĐL cho SV, đạt 4,16 và 4,12 điểm trong đánh giá của SV. Bên cạnh đó, việc Tổ chức thường xuyên các hoạt động trải nghiệm thực tế giảng dạy địa lí ở trường phổ thông có phần hạn chế hơn hai phương thức trên, lần lượt là 4,09 và 4,07 trong đánh giá của SV và GV. Về kiểm tra, đánh giá: Sử dụng đa dạng các hình thức, phương pháp, công cụ kiểm tra, đánh giá việc học tập và rèn luyện của SV cũng được đánh giá cao hơn việc Kết quả đánh giá được sử dụng để điều chỉnh việc học của SV, việc dạy của GV nhằm thúc thúc đẩy quá trình cải tiến năng lực GDĐL thường xuyên, 4,12 và 4,08 điểm (của cả 3 nhóm). Một cách tổng thể, đổi mới kiểm tra, đánh giá vẫn thực hiện chậm hơn quá trình đổi mới phương pháp đào tạo, nhất là khâu sử dụng kết quả đánh giá. Trong khi, đánh giá là một quá trình rất quan trọng, quyết định hiệu quả phát triển năng lực GDĐL của SV. Bên cạnh đó, việc cải tiến phương thức đào tạo đã tập trung nhiều vào đổi mới phương pháp theo định hướng phát triển năng lực SV mà chưa chú ý đúng mức đến các hoạt động trải nghiệm

54


để có thể đáp ứng nhu cầu của người học. Đây là những thực tế đặt ra và cần được giải quyết trong các phần tiếp theo của luận án.

Học liệu, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ quá trình đào tạo có mức điểm đánh giá thấp nhất, đạt 3,97 (trung bình 3 đối tượng). SV cho rằng: Nguồn học liệu được trang bị đầy đủ, họ có khả năng tiếp cận một cách dễ dàng (4,09). Tuy nhiên, Phòng thực hành NVSP được đầu tư để phục vụ việc luyện tập các kĩ năng dạy học, và hạ tầng CNTT&TT, phương tiện dạy học được trang bị để hiện đại hóa quá trình đào tạo và nâng cao chất lượng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu (3,95). Cải thiện điều kiện vật chất, trang thiết bị, hạ tầng công nghệ là một trong nhưng giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo.

1.5.3.2. Các biện pháp pháp triển năng lực giáo dục địa lí

Các biện pháp phát triển năng lực GDĐL được khảo sát về mức độ thường xuyên của việc áp dụng trong quá trình đào tạo, sử dụng thang đo 5 mức độ từ “không áp dụng” đến “rất thường xuyên” cho 3 đối tượng GiV, SV, và GV. Biện pháp được chia làm 5 nhóm gồm: Tích hợp, phương pháp, trải nghiệm, ứng dụng CNTT&TT và đánh giá. Trong mỗi nhóm, khảo sát một số nhận định mang tính định hướng của việc phân tích thực trạng vấn đề.

Bảng 1.3. Đánh giá mức độ thường xuyên của việc thực hiện các biện pháp phát triển năng lực GDĐL cho SV


Các nhóm biện pháp

Trung bình

Giảng viên

Giáo viên

Sinh viên

TB

Tích hợp

3,73

4,08

3,77

3,96

Tích hợp kiến thức chuyên môn và PPDH

3,95

4,17

3,80

4,04

Thiết kế các học phần và giáo trình tích hợp kiến thức địa lí, kĩ năng địa lí và PPDH dưới hình thức mô-đun.

3,50

3,99

3,74

3,88

Phương pháp

4,03

4,25

3,95

4,14

Đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng phát huy vai trò chủ động, tích cực, độc lập, sáng tạo của SV

4,15

4,25

3,99

4,16

Sử dụng và kết hợp các PPDH phát triển năng lực GDĐL

3,90

4,25

3,91

4,12

Trải nghiệm

3,79

4,22

3,76

4,05

Thiết kế và tổ chức bài học các học phần PPDH địa lí theo lí thuyết và mô hình học tập trải nghiệm.

3,65

4,20

3,77

4,03

Tăng cường hoạt động trải nghiệm thực tế dạy học địa lí ở

trường phổ thông như dự giờ, ngoại khóa…

3,93

4,24

3,74

4,06

Ứng dụng CNTT&TT

3,93

4,20

3,94

4,10

Kết hợp các các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn với các phương tiện CNTT&TT vào quá trình dạy học

4,05

4,25

4,00

4,16

Thiết lập các cách thức giao tiếp, khai thác và trao đổi thông tin thông qua Internet

3,80

4,15

3,88

4,04

Đánh giá

3,53

4,18

3,82

4,02

Đổi mới hình thức, phương pháp, công cụ đánh giá theo định hướng phát triển năng lực trong quá trình đào tạo

3,83

4,24

3,90

4,10

Xác định và áp dụng Đường phát triển năng lực GDĐL

3,23

4,13

3,74

3,94

Điểm trung bình tất cả các biện pháp

3,80

4,19

3,85

4,05

55


Thực hiệm kiểm định ANOVA theo 2 cặp đối tượng khảo sát gồm: đánh giá của GiV với SV, đánh giá của GV với SV. Kết quả kiểm định cặp thứ nhất cho thấy: Giá trị Sig Levene của các nhóm biện pháp “tích hợp” (0.859), “biện pháp phương pháp” (0.163), “biện pháp trải nghiệm” (0.887), “biện pháp ứng dụng CNTT&TT” (0.541) và giá trị Sig của tất cả các biện pháp là 0.455; đồng thời, Sig của ANOVA các biện pháp trên đều > 0.05. Có nghĩa là: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp này giữa GiV và SV. Đối với nhóm biện pháp “Đánh giá”: “Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê”. Nhận định này được đưa ra dựa trên kết quả kiểm định giá trị Sig Levene của biện pháp đánh giá lớn hơn 0.05 (0.879) và giá trị Sig ANOVA là 0.009 (<0.05). SV đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp trong nhóm này thường xuyên hơn so với đánh giá của GiV (Điểm TB là 3.83 so với 3.53) (bảng 1.3 và phụ lục 1.6).

Kết quả kiểm định cặp thứ hai giữa đánh giá của GV và đánh giá của SV cho thấy: giá trị Sig Levene của các biện pháp “tích hợp”, “trải nghiệm”, “ứng dụng CNTT”, “đánh giá” và của “tất cả các biện pháp” đều > 0.05 nên phương sai của các nhóm giá trị là đồng nhất, tiếp tục phân tích giá trị Sig ANOVA đều có kết quả là 0.000, nên kết luận: Có sự khác biệt có mức ý nghĩa thống kê. Đối với “biện pháp phương pháp”, kết quả giá trị Sig Levene là 0.044 (< 0.05), phương sai không đồng nhất giữa các nhóm giá trị nên phân tích giá trị Sig của kiểm định Welch có kết quả là 0.000 (< 0.05), cũng có thể kết luận: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê”. Sự khác biệt cụ thể như sau: tất cả các biện pháp đều được GV đánh giá là “thường xuyên” trong việc phát triển năng lực GDĐL của SV với điểm đánh giá đều đạt trên 4.00 điểm, trong khi đó GiV chỉ “thỉnh thoảng” thực hiện các biện pháp trên với điểm đánh giá của SV dao động từ 3.77 đến

3.95 điểm (bảng 1.3 và phụ lục 1.6).

Phân tích giá trị trung bình của thống kê để so sánh mức độ thường xuyên của các biện pháp. Điểm trung bình chung là 4,05 và ngưỡng giao động từ 3,96 đến 4,14/5 cho thấy mức độ “thường xuyên” của việc áp dụng các biện pháp phát triển năng lực GDĐL. Tuy nhiên, giữa các biện pháp có sự khác nhau về mức độ áp dụng, cụ thể:

Đổi mới phương pháp đào tạo SV sư phạm địa lí là nhóm phương pháp được thực hiện thường xuyên nhất với điểm đánh giá 4,14. Trong đó Đổi mới theo hướng phát huy vai trò chủ động, tích cực, độc lập, sáng tạo của SV thông qua tổ chức các hoạt động học tập và giáo dục được thực hiện thường xuyên hơn so với Sử dụng và kết hợp các phương pháp dạy học phát triển năng lực GDĐL cho SV như phương pháp vi mô, dạy học dự án, dạy học tình huống, huấn luyện, 4,16 so với 4,12 điểm. Có thể thấy: GiV thường thể hiện mức độ tiếp cận với định hướng đổi mới nhanh, tuy nhiên đi vào việc vận dụng và kết hợp các biện pháp cụ thể thường chưa “đều tay”.

56


Việc kết hợp các các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn với các phương tiện CNTT&TT vào quá trình dạy học để nâng cao hiệu quả phát triển các năng lực GDĐL cho SV là cần thiết, do vậy mức độ áp dụng của GiV là thường xuyên (GV đánh giá là 4,25 điểm, SV đánh giá 4,0). Việc thiết lập các cách thức giao tiếp, khai thác và trao đổi thông tin phục vụ phát triển năng lực GDĐL thông qua Internet; E-learning; Blended learning ít thường xuyên hơn trong nhóm giải pháp này, thể hiện mức độ đánh giá của các đối tượng GiV,GV,SV lần lượt là: 3,8, 4,15 và 3,88.

Học tập trải nghiệm vẫn là một trong nhưng mô hình được sử dụng “thường xuyên” trong đào tạo SV sư phạm địa lí (4,1 điểm trung bình). Thiết kế và tổ chức bài học các học phần PPDH địa lí theo lý thuyết và mô hình học tập trải nghiệm có mức đánh giá thấp so với việc tăng cường hoạt động trải nghiệm thực tế giảng dạy địa lí ở trường phổ thông như dự giờ, ngoại khóa, 4,03 so với 4,06 điểm trung bình. GV địa lí phổ thông vẫn đánh giá mức độ thường xuyên của các biện pháp này cao hơn so với đánh giá của GiV và SV.

Đổi mới kiểm tra đánh giá trong quá trình đào tạo được GiV thực hiện chưa thường xuyên so với việc đổi mới phương pháp. Nhận định này là có căn cứ khi mà điểm tự đánh giá của GiV 3,53 của SV là 3,82 (ở mức “thỉnh thoảng”). Trong đó, đổi mới hình thức, phương pháp, công cụ kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực trong quá trình đào tạo SV sư phạm địa lí được thực hiện “đều tay” hơn, GiV, GV, SV đều đánh giá cao, lần lượt là 3,83, 4,24 và 3,90 điểm. Ngược lại, việc xác định và áp dụng Đường phát triển năng lực GDĐL để tổ chức và đánh giá quá trình hình thành và phát triển từng thành phần năng lực của SV là một biện pháp mới, đòi hỏi trình độ cao hơn trong quy trình kĩ thuật, do vậy việc áp dụng là ít phổ biến, lần lượt là 3,23, 3,74 trong đánh giá của GiV và SV.

Tích hợp việc rèn luyện năng lực GDĐL trong việc giảng dạy các học phần chuyên môn địa lí và phát triển năng lực đặc thù địa lí qua các học phần phương pháp là một hoạt động “thường xuyên” trong quá trình đào tạo, các mức độ đánh giá lần lượt là: 3,95, 4,17, 3,80 và trung bình là 4,04. Ngược lại, Việc thiết kế các học phần và giáo trình tích hợp kiến thức địa lí tổng hợp, kĩ năng địa lí và phương pháp giảng dạy dưới hình thức mô-đun chưa phổ biến. Xét trong tổng thể, mức độ đánh giá cho tính thường xuyên của biện pháp này là thấp, GiV (3,50) SV (3,74).

1.5.3.3. Các phương pháp phát triển năng lực giáo dục địa lí

Khảo sát đánh giá của SV và GiV về mức độ thường xuyên của việc áp dụng các phương pháp phát triển năng lực GDĐL cho SV (từ “không áp dụng” đến “rất thường xuyên”). Đối với GV địa lí phổ thông, các phương pháp này được khảo sát về mức độ

57


cần thiết (từ “rất không cần thiết” đến “rất cần thiết”). So sánh các đánh giá để kết luận về thực trạng áp dụng phương pháp phát triển năng lực cho SV.

Hình 1 11 Đánh giá mức độ thường xuyên và cần thiết của việc áp dụng 2

Hình 1.11. Đánh giá mức độ thường xuyên và cần thiết của việc áp dụng các phương pháp phát triển năng lực GDĐL cho SV

Về mức độ thường xuyên của việc sử dụng các phương pháp phát triển năng lực GDĐL, người nghiên cứu tiến hành kiểm định ANOVA đánh giá giữa GiV bộ môn phương pháp giảng dạy và đánh giá của SV về các phương pháp áp dụng trong các học phần PPDH địa lí. Kết quả cho thấy: giá trị Sig của Levene (0.561) và Sig của ANOVA (0.923) đều > 0.05. Thực hiện kiểm định tương tự giữa GiV bộ môn phương pháp và GiV chuyên môn. Kết quả kiểm định ANOVA cũng cho giá trị Sig của Levene (0.259) và Sig của ANOVA (0.323) > 0.05. Kết luận: Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về đánh giá mức độ áp dụng các phương pháp giảng dạy giữa GiV bộ môn phương pháp và SV; giữa GiV phương pháp và GiV chuyên môn” (phụ lục 1.7). Các kiểm định trên là cơ sở cho những phân tích sau:

Phân phối điểm đánh giá dao động từ 3.54 đến 4.34 và mức trung bình chung là

3.97 và trên thang điểm 5 cho thấy: các phương pháp được sử dụng đa dạng trong phát triển năng lực GDĐL cho SV. Tuy nhiên, mức độ thường xuyên là không giống nhau. Dựa vào số liệu, người nghiên cứu chia thành 3 nhóm để phân tích. Nhóm các phương pháp sử dụng thường xuyên gồm: phương pháp sử dụng phương tiện trực quan, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp đàm thoại, đàm thoại gợi mở, phương pháp tổ chức cho SV thuyết trình, phương pháp giảng giải/ giảng thuật với điểm trung bình lần lượt là 4,32; 4,46; 4,39; 4,34; 4,21. Đồng thời, GV cũng đánh giá cao nhất về sự “cần thiết” của các phương pháp này với số điểm lần lượt là 4,32; 4,3; 4,07; 4,19; 3,9. Dễ dàng nhận thấy: đây là những phương pháp truyền thống và dạy đặc trưng trong dạy học đại học. Mức độ thường xuyên của các phương pháp: Tình huống, làm mẫu, dạy học dựa trên dự án, đóng vai được GiV và SV đánh giá thấp hơn, với điểm trung bình lần lượt là 3,55; 3,38; 3,43; 3,24 (mức 3: “thỉnh thoảng”). GV THPT cũng đánh giá các phương pháp này “cần thiết” trong quá trình đào tạo các học phần phương pháp với

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/05/2022