Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 19

giám sát và xử lý các vi phạm về quy chế cho vay của các NH cũng được NHNN thực hiện thường xuyên và hiệu quả hơn.

 Thứ tư: Kiểm soát nội bộ

Qua quá trình khảo sát nhân viên tín dụng tại các NHTMCP cho thấy tất cả các ngân hàng đều có quy trình kiểm soát nội bộ. Tùy theo nhu cầu, quy mô và đặc điểm của mỗi NH mà việc lựa chọn áp dụng mô hình quản lý RRTD là khác nhau,

tuy nhiên, mỗi soát như sau:

NH đều kết hợp

việc

quản

trị RRTD với mô hình ba tuyến kiểm

­ Tuyến kiểm

soát thứ nhất

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.

là các khối

kinh doanh, bán hàng, các chuyên

Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 19

viên KH, chi nhánh, các đơn vị vận hành tại Hội sở... Nhiệm vụ chính của các đơn

vị này là xác định, đánh giá, ngăn ngừa, báo cáo và theo dõi các rủi ro phát sinh

trong hoạt động cho vay và các quy trình vận hành khác, bảo vệ lợi ích của đơn

vị thông qua việc tự đánh giá rủi ro và kiểm soát tính hiệu quả của từng đơn vị.

­ Tuyến kiểm soát thứ hai là khối quản trị rủi ro, khối tuân thủ, quản trị rủi

ro hoạt động và pháp chế. Tuyến này có rất nhiều nhiệm vụ, trong đó quan trọng

hơn cả là việc độc lập đánh giá và kiểm soát tính hiệu quả của hệ thống ở tuyến

phòng thủ thứ nhất;

QLRR chính thông qua việc

thiết

lập

khẩu

vị rủi

ro/chính

sách cho vay, xây dựng quy trình/hướng dẫn TD và cho vay, theo dõi, cảnh báo sớm…

­ Tuyến kiểm soát thứ ba là bộ phận kiểm toán nội bộ. Đây là bộ phận trực

thuộc Ban kiểm soát và không thuộc Ban điều hành của NH, nên việc đánh giá 2

tuyến

phòng thủ trước

và các rủi ro có thể xảy

ra được thực

hiện độc lập và

khách quan.

Với mô hình 3 tuyến kiểm soát này, tất cả thành viên trong hệ thống đều

phải tham gia quá trình quản trị rủi ro. Do vậy, mô hình này đảm bảo mọi rủi ro

trong mỗi tác vụ của NH được nhận diện, kiểm soát và giảm thiểu. Tuy nhiên,

theo các chuyên gia, để vận hành thành công, đòi hỏi phải đầu tư rất lớn cả về tiền bạc lẫn thời gian.

 Thứ năm, Cán bộ tín dụng

Qua quá trình khảo sát cán bộ tín dụng tại các NHTMCP cho thấy Chính

sách nhân sự của

các NH được

xây dựng

khá chi tiết,

đã chuẩn

hóa hệ thống

chức

danh và định

biên nhân sự,

xây dựng

bộ chuẩn

đánh giá k ế t q u ả

l à m

v i ệ c

của

CBNV, triển

khai hệ thống

quản

lý kết quả

làm việc,

đổi

mới hệ

thống lương thưởng.

Một số NH triển

khai chương

trình đánh giá và nâng cao

năng lực

theo chuẩn

quốc

tế,

hướng đến kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo với

nhiều

kinh nghiệm

trong nước

và quốc

tế.

100% các NHTMCP trả lương

cho

CBNV làm việc theo vai trò đảm nhận của

từng

vị trí công việc,

theo năng lực

cá nhân và theo kết

quả thực

hiện

công việc.

Ngoài ra, CBNV còn được hưởng

lương, thưởng theo vị trí công việc, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, mức

độ đóng góp vào kết quả kinh doanh của đơn vị. Bên

cạnh

việc

xây dựng

chính

sách lương thưởng phù hợp, các NH cũng chú trọng đến công tác đào tạo, hoàn

thiện

kiến

thức,

kỹ năng cho CBNV theo nhiều

hình thức

đa dạng

như E­

learning, tập trung, live­meeting/video conference.

Ngoài các chương

trình đào tạo

đa dạng,

các NHTMCP như Vietinbank,

Maritime Bank đã xây dựng chương trình đặc biệt dành cho các cán bộ có năng lực như Talent Pool với số lượng tham gia của gần 500 CBNV trên toàn quốc; MB quy

hoạch

nhân sự top 100, top 500, chương

trình quản

trị nhân sự tiềm

năng…

nhằm

triển

khai nhận

diện

đội

ngũ nhân viên có tiềm

năng đảm

nhiệm

vị trí

lãnh đạo trong tương lai để đưa vào đào tạo, giữ chân. Các cán bộ được tuyển

chọn từ chương trình sẽ được

hưởng

những

quyền

lợi,

chế độ đặc

biệt

cùng

chính sách đào tạo lịch trình.

ưu việt,

giúp CBNV hoàn thiện năng lực và phát triển đúng

Điển hình tại Vietinbank, phát triển đào tạo trực tuyến luôn được coi là

nhiệm vụ

trọng tâm để

nâng cao hiệu quả, tiết giảm chi phí. Từ

năm 2011,

Vietinbank đã triển khai Hệ thống đào tạo trực tuyến E­learning giúp học viên có

thể học tập mọi lúc, mọi nơi có kết nối Internet. Nội dung các bài giảng cũng

được xây dựng bao trùm hầu như toàn bộ các kỹ năng, nghiệp vụ theo khung đào tạo từng vị trí cán bộ. Kiến thức nghiệp vụ kỹ năng được cập nhật thường xuyên thông qua mô phỏng, liên hệ thực tế sinh động bằng hình ảnh, clip, tình huống, mini game, quicktest trong suốt quá trình học đã tăng tính tương tác, lôi cuốn học viên. Có thể dẫn chứng Ứng dụng Remote Expert (chuyên gia từ xa) đã hỗ trợ học viên chủ động rèn luyện tình huống thực tiễn tại nhà hoặc khi trở về chi nhánh.

Ứng dụng lớp học ảo cũng đã giúp tăng tính chủ động cho từng học viên có thể học/trao đổi với giảng viên/chuyên gia cùng các tài liệu được chia sẻ, tương tác như học offline. Mặt khác những tiện ích của ứng dụng Workplace cũng được vận dụng sáng tạo trong hoạt động đào tạo, tạo điều kiện cho học viên có cơ hội được kết nối “trực tiếp ảo” với các chuyên gia.

100% NH đánh giá kết quả làm việc

của

CBNV qua hiệu

suất

công việc

làm cơ sở xem xét phần

thưởng

và kỷ luật

tương

ứng

nhằm

tạo

động

lực

cho

CBNV. Một

số NH đã quan tâm hơn

đến

các hình thức

tạo

động

lực

khác qua

việc nâng cao sự hài lòng và sự gắn kết của CBNV đối với NH, nhằm động viên và

thúc đẩy CBNV có thể toàn tâm cống

hiến,

hoàn thành tốt

nhất

các chỉ tiêu kế

hoạch được đặt ra, từ đó nâng cao CLTD, cụ thể: Hàng năm, Techcombank đều thực hiện khảo sát đánh giá kết quả làm việc của CBNV ngoài phương thức đánh giá qua hiệu suất làm việc, theo đó hai chỉ số “gắn kết” và “sự hài lòng” luôn được

NH đánh giá cao. ACB thực

hiện

thực

hiện

khảo

sát đánh giá sự hài lòng và gắn

kết nhân viên đối với NH khi hoàn thiện dự án Khảo sát hài lòng và gắn viên vào năm 2018

kết nhân

 Thứ sáu: Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động tín dụng

100% NHTMCP Việt Nam đượ c khảo sát đều

đã hoàn thiện

việc

xây

dựng kho dữ liệu tập trung giúp hỗ trợ công tác dự báo, phân tích và ra quyết định

kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng tín dụng. Việc

trao đổi thông tin nội bộ trong NH thuận tiện.

Hệ thống

thông tin cần

thiết về

hoạt

động

TD được

cập

nhật

kịp

thời

và chủ động

gửi

đến

CBTD theo phân

quyền truy cập. Một trong những phương thức truyền thông về hoạt động TD là

báo cáo thường

niên của

các NH đã thực

hiện

khá tốt.

Các chỉ số quan trọng

liên quan đến hoạt động TD như dư nợ, cơ cấu dư nợ, nợ xấu, thu nhập lãi…đều được hầu hết các NH thể hiện rõ trong báo cáo thường niên. Báo cáo thường niên của NH trước khi công bố trước công chúng đều được các công ty kiểm toán lớn

như PWC, KPMG, Earn&Young, Deloitte kiểm liệu.

toán, thể hiện độ tin cậy của dữ

Ngoài ra, ở góc độ thông tin khách hàng vay, đến thời điểm này việc kết nối của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia (CIC) đã được bao phủ khá sâu rộng. Cơ

sở dữ liệu của CIC đã có trên 40,6 triệu khách hàng vay, trong đó có khoảng

178.000 DN đang có dư nợ tại các NHTMCP Việt Nam. Hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế mà CIC xây dựng, vận hành trong thời gian qua cũng đã hỗ trợ rất tốt cho các NHTM trong hoạt động đánh giá, xác minh, thẩm định khách hàng. Từ đó giảm thiểu những rủi ro chủ quan của con người và tăng mức độ chuyên nghiệp trong quản trị rủi ro nguồn vốn, rủi ro giao dịch đến từ khách hàng vay.

Các NHTMCP Việt Nam đã chủ động nghiên cứu, đầu tư mạnh mẽ vào một số công nghệ thành tựu của nhân loại trong sản phẩm, dịch vụ, hoạt động và quản trị của mình. Nổi bật nhất là việc triển khai thực tế các công nghệ số nền tảng như: Điện toán đám mây, Phân tích dữ liệu lớn, Trí tuệ nhân tạo, các ứng dụng, giải pháp như xác thực sinh trắc học… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, làm phong phú thêm những trải nghiệm khách hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng đang có sự đầu tư lớn về hạ tầng CNTT, phần mềm corebanking thế hệ mới, triển khai các công nghệ nền tảng mới, ứng dụng các giải pháp sáng tạo theo xu hướng chung về chuyển đổi số, số hóa dịch vụ của ngành Ngân hàng với mục tiêu cuối cùng là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số theo hướng đơn giản, thân

thiện, tự Channel).

động, thông minh và tiếp cận khách hàng đa kênh đồng nhất (Omni­

Hạ tầng

công nghệ thông tin luôn được

các NHTMCP Việt Nam

ưu tiên

chú trọng

đầu

tư,

đảm

bảo

công tác chấm

điểm

xếp

hạng

TD, khởi

tạo

khoản

vay, quản

lý TSBĐ, chiết

xuất

thông tin quản

lý danh mục

TD, cảnh

báo sớm

được

thực

hiện

tự động,

giảm

thiểu

lỗi tác nghiệp, thời gian xử lý và nâng cao

chất lượng thông tin. Từ năm 2014 đến năm 2018 là những năm đánh dấu bước phát triển vượt bậc về mặt công nghệ của các NHTMCP. Trong giai đoạn này, một số NH đã hoàn thành các dự án công nghệ lớn nhất từ trước đến nay nhằm hiện đại

hóa năng lực hệ thống công nghệ thông tin và tăng cường hệ thống an ninh mạng

qua việc lắp đặt hệ thống máy chủ, hệ thống dự phòng, đường truyền dự phòng…

như VIB đã hoàn thành dự án thiết lập một trung tâm dữ liệu và trung tâm khắc

phục sự cố mới đạt tiêu chuẩn quốc tế giúp NH loại bỏ được rủi ro lớn nhất về

mặt công nghệ. MB triển khai các dự án công nghệ thông tin theo giải pháp chiến lược như DW, DR – DC, BPM…

100% NHTMCP đã đầu tư phát triển nên hệ thống mạng nội bộ, theo đó toàn bộ văn bản được ban hành và lưu trữ trên kho tài liệu mạng nội bộ để toàn thể CBNV có thể truy cập và tìm hiểu khi cần thiết. Hệ thống thông tin nội bộ thực sự phát huy hiệu quả trong việc phổ biến các quy trình, đáp ứng nhu cầu lưu trữ, truy xuất nhanh chóng thông qua cách thức tìm kiếm từ khóa. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin sẽ tự động gửi các thông tin liên quan đến hoạt động TD đến CBTD theo

phân quyền.

Các thông tin về hoạt

động

TD nói riêng cũng như hoạt

động NH

được các NH truyền thông qua báo cáo thường niên, qua trang thông tin của NH, các

nguồn

thông tấn

báo chí hoặc

qua các phương

pháp truyền

thông khác. Báo cáo

thường niên là một trong những phương tiện phổ biến được các NH sử dụng để

truyền thông các thông tin về NH. Các chỉ số quan trọng liên quan đến hoạt động

TD như dư nợ, cơ cấu dư nợ, nợ xấu, thu nhập lãi…đều được hầu hết các NH thể hiện rõ trong báo cáo thường niên. Báo cáo thường niên của NH trước khi công bố

trước công chúng đều

được

các công ty kiểm

toán lớn

như PWC, KPMG, Earn

&Young, Deloitte kiểm toán, thể hiện độ tin cậy của dữ liệu.

Qua báo cáo thường niên, KH, người muốn tìm hiểu về NH có thể hiểu rõ

hơn

về tình hình hoạt

động

kinh doanh của

NH. Tuy nhiên, qua tổng quan nghiên

cứu báo cáo thường niên của các NHTM, tác giả nhận thấy báo cáo thường niên

được lập khác biệt khá rõ rệt giữa các NH. Một số NH báo cáo chỉ tiêu về hoạt

động TD đầy đủ, KH, nhà đầu tư, người muốn tìm hiểu các thông tin có thể biết được tình hình hoạt động của NH. Tuy nhiên cũng có NH chỉ báo cáo sơ sài, báo

cáo thường

niên không thể hiện

báo cáo kết

quả hoạt

động

kinh doanh, không

đính kèm thuyết

minh báo cáo tài chính hoặc

có đăng tải

báo cáo thường

niên

nhưng không thể tải được. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhóm các NHTMCP Nhà nước như Vietcombank, Vietinbank, BIDV có công tác truyền thông về hoạt động

TD khá tốt. KH, nhà đầu tư, người muốn tìm hiểu về hoạt động TD của các NH

này có thể nắm rõ được tình hình hoạt động TD của NH vì các các báo cáo cần

thiết

về hoạt động TD đều được

các NH này công khai rộng rãi trên trang mạng

thông tin.

2.3.2 Hạn chế

Bên cạnh


những


mặt


đạt


được,


hoạt


động


tín dụng


của


các NHTMCP,

vẫn

còn những

mặt

tồn

tại

và hạn

chế nhất

định

làm

ảnh

hưởng

không nhỏ

đến quy mô và chất lượng tín dụng

 Thứ nhất: Việc tăng vốn của một số NHTMCP để thực hiện theo Basel 2 không dễ dàng

Các ngân hàng TMCP Nhà nước như BIDV và Vietinbank vẫn đang khó khăn trong việc tăng vốn với mức vốn điều lệ không tăng lên trong nhiều năm qua. Hạn chế về vốn khiến các ngân hàng không chỉ không đáp ứng được quy định về CAR mà còn cản trở hoạt động kinh doanh do phải đáp ứng hàng loạt các quy định khác nữa

Tính đến cuối năm 2018, Vietcombank đã được NHNN công nhận áp dụng Basell 2 thành công, là 1 trong 2 ngân hàng đầu tiên của hệ thống và duy nhất trong nhóm có vốn Nhà nước làm được điều đó. Thế nhưng như vậy không có nghĩa là yêu cầu về vốn không còn đặt ra với NH này. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng nhỏ hơn như Techcombank và VPBank đang tăng vốn sát nút và đã tăng được nguồn vốn dồi dào trong 2 năm 2017, 2018 để có nguồn cho hoạt động trong vài năm tới. Bên cạnh đó khó khăn trong việc bán vốn cho đối tác ngoại của Vietcombank là vẫn chưa hoàn tất dù đã chuẩn bị từ rất lâu. Tại BIDV, ngân hàng cũng tính bán vốn cho đối tác nước ngoài từ khi mới lên sàn vào năm 2014 nhưng đến thời điểm này vẫn chưa hoàn tất. Năm 2018, NH mới xin cổ đông thông qua việc bán 15% vốn điều lệ sau phát hành cho đối tác là ngân hàng Hana của Hàn Quốc. VietinBank năm 2018 đã hết room bán cho đối tác ngoài, trong khi chuyện sáp nhập PGBank từng được xem là công cụ tốt để tăng thêm vốn 3.000 tỷ cũng bất thành, chỉ còn trông chờ vào những thay đổi từ chính sách Nhà nước qua việc chia cổ tức và giảm sở hữu vốn Nhà nước.

 Thứ hai: Quá trình xử lý nợ xấu còn nhiều khó khăn

Bên cạnh những thành tựu đạt được trong thời gian qua về nỗ lực giảm nợ xấu tại các NHTMCP Việt Nam, trong quá trình triển khai công tác xử lý nợ xấu tại

các NHTMCP Việt Nam, vẫn còn một số thách thức, khó khăn cần quan tâm giải quyết như sau:

­ Nguồn lực tài chính cho quá trình xử lý nợ xấu

Thực tế quá trình xử lý nợ xấu cho thấy, nguồn lực tài chính chủ yếu là tự

lực của các NHTMCP Việt Nam thông qua tăng cường trích lập và sử dụng dự

phòng rủi ro để xử lý các khoản nợ xấu. Điều này cho thấy nỗ lực rất lớn của hệ thống ngân hàng thời gian qua đã tự xử lý được gần 60% số nợ xấu[20]. Việc phát hành trái phiếu đặc biệt VAMC và cho phép các ngân hàng có thể cầm cố để vay tái cấp vốn của NHNN chỉ là giải pháp hỗ trợ tạm thời, tạo thanh khoản cho các ngân

hàng khi bán nợ xấu cho VAMC nhưng thực chất không có nguồn tiền thực sự

chuyển cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho VAMC. Do đó, để xử lý nợ xấu thành công, cần có nguồn lực tài chính vững mạnh để thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu. Theo đó, cần có các phương án tài chính để mua trực tiếp và dứt điểm nợ xấu của các ngân hàng, chuyển số tiền mua nợ xấu cho các ngân hàng để ổn định kinh doanh, tăng cường hoạt động xử lý nợ xấu VAMC thông qua tái cấu trúc, bán cho

các nhà đầu tư đảm...

theo giá thị

trường, xử

lý tài sản bảo đảm, thanh lý tài sản bảo

­ Yêu cầu tăng vốn cho các NHTMCP Việt Nam

Trong bối cảnh thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp do ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ ­ Trung và các vấn đề khác, qua đó, tiềm ẩn nhiều rủi ro, tác động xấu đến nền kinh tế ­ tài chính trong nước. Hoạt động của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện còn đang gặp khó khăn về tài chính, sự thành công của quá trình cơ cấu lại hệ thống các NHTMCP Việt Nam và xử lý nợ xấu, kể cả thoái vốn ngoài ngành của các DNNN và ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào sự phục hồi của nền kinh tế, điều kiện thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, trong bối cảnh NSNN còn bội

chi, quan điểm của Chính phủ

là không sử

dụng tiền của NSNN để cơ

cấu lại

NHTMCP Việt Nam và xử lý nợ xấu, trong khi khả năng huy động các nguồn lực xã hội cho tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các TCTD còn hạn chế. Vì vậy, việc tăng vốn cho các ngân hàng, đặc biệt là các NHTMCP Nhà nước gặp nhiều khó khăn do theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu

tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định số 91/2015/NĐ­CP không cho phép các NHTMCP Nhà nước giữ lại lợi nhuận, sau khi trích lập các quỹ phải

trả/phải nộp cho Nhà nước; đồng thời, tại Nghị

quyết số

25/2016/QH14 ngày

09/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016­ 2020 cũng quy định rõ việc tăng vốn điều lệ cho các NHTMCP Nhà nước không sử dụng NSNN.

­ Hoạt động của các NHTMCP Việt Nam

Thời gian qua, trong hoạt động các ngân hàng TMCP Việt Nam đang gặp những khó khăn trong việc xử lý nợ xấu như:

(i) Nợ xấu được xử lý bằng dự phòng rủi ro và trái phiếu đặc biệt là chủ yếu trong khi các biện pháp xử lý nợ xấu triệt để thông qua xử lý tài sản bảo đảm và khách hàng vay trả nợ còn ở mức thấp. Do đó, tính hiệu quả và triệt để trong xử lý nợ xấu còn hạn chế, nợ xấu vẫn còn tồn tại khi mà bên cho vay và bên đi vay chưa chấm dứt, tất toán được quyền và nghĩa vụ liên quan đến khoản nợ. Đẩy mạnh xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC nhận trái phiếu đặc biệt như trong thời gian qua làm ảnh hưởng đáng kể đến sự lành mạnh và an toàn hoạt động của ngân hàng, bởi toàn bộ rủi ro và chi phí xử lý nợ xấu do ngân hàng gánh chịu. Chi phí dự phòng rủi ro và trích lập dự phòng trái phiếu đặc biệt tiếp tục tăng trong các năm tới sẽ làm hạn chế kết quả kinh doanh và khả năng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng nếu nợ xấu không được xử lý triệt để theo cơ chế thị trường

(ii) Ngân hàng cũng gặp những khó khăn trong việc sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu do theo quy trình, ngân hàng phải áp dụng các biện pháp thu hồi nợ từ khách hàng trước, thậm chí, xét điều kiện của khách hàng áp dụng các biện pháp hỗ trợ (cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ, cơ cấu khoản vay...) để nâng cao năng lực tài chính của khách hàng, tăng khả năng trả nợ của khách hàng, sau đó mới có thể sử dụng dự phòng rủi ro, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ để xử lý nợ xấu thuộc nhóm 5 hoặc khoản nợ của khách hàng bị giải thể, phá sản, mất tích, chết

(iii) Khả

năng trả

nợ của khách hàng vẫn còn hạn chế

do sản xuất kinh

doanh còn khó khăn; một số khách hàng chây ỳ, ý thức trả nợ kém, không hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý TSBĐ để trả nợ; khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích

Xem tất cả 254 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí