giám sát và xử lý các vi phạm về quy chế cho vay của các NH cũng được NHNN thực hiện thường xuyên và hiệu quả hơn.
Thứ tư: Kiểm soát nội bộ
Qua quá trình khảo sát nhân viên tín dụng tại các NHTMCP cho thấy tất cả các ngân hàng đều có quy trình kiểm soát nội bộ. Tùy theo nhu cầu, quy mô và đặc điểm của mỗi NH mà việc lựa chọn áp dụng mô hình quản lý RRTD là khác nhau,
tuy nhiên, mỗi soát như sau:
NH đều kết hợp
việc
quản
trị RRTD với mô hình ba tuyến kiểm
Tuyến kiểm
soát thứ nhất
Có thể bạn quan tâm!
- Mô Hình Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Cltd Tại Nhtmcp Việt Nam
- Nhóm Các Nhân Tố Sau Khi Thực Hiện Phân Tích Nhân Tố Khám Phá
- Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 18
- Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 20
- Định Hướng Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Đến Năm 2030
- Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
là các khối
kinh doanh, bán hàng, các chuyên
viên KH, chi nhánh, các đơn vị vận hành tại Hội sở... Nhiệm vụ chính của các đơn
vị này là xác định, đánh giá, ngăn ngừa, báo cáo và theo dõi các rủi ro phát sinh
trong hoạt động cho vay và các quy trình vận hành khác, bảo vệ lợi ích của đơn
vị thông qua việc tự đánh giá rủi ro và kiểm soát tính hiệu quả của từng đơn vị.
Tuyến kiểm soát thứ hai là khối quản trị rủi ro, khối tuân thủ, quản trị rủi
ro hoạt động và pháp chế. Tuyến này có rất nhiều nhiệm vụ, trong đó quan trọng
hơn cả là việc độc lập đánh giá và kiểm soát tính hiệu quả của hệ thống ở tuyến
phòng thủ thứ nhất;
QLRR chính thông qua việc
thiết
lập
khẩu
vị rủi
ro/chính
sách cho vay, xây dựng quy trình/hướng dẫn TD và cho vay, theo dõi, cảnh báo sớm…
Tuyến kiểm soát thứ ba là bộ phận kiểm toán nội bộ. Đây là bộ phận trực
thuộc Ban kiểm soát và không thuộc Ban điều hành của NH, nên việc đánh giá 2
tuyến
phòng thủ trước
và các rủi ro có thể xảy
ra được thực
hiện độc lập và
khách quan.
Với mô hình 3 tuyến kiểm soát này, tất cả thành viên trong hệ thống đều
phải tham gia quá trình quản trị rủi ro. Do vậy, mô hình này đảm bảo mọi rủi ro
trong mỗi tác vụ của NH được nhận diện, kiểm soát và giảm thiểu. Tuy nhiên,
theo các chuyên gia, để vận hành thành công, đòi hỏi phải đầu tư rất lớn cả về tiền bạc lẫn thời gian.
Thứ năm, Cán bộ tín dụng
Qua quá trình khảo sát cán bộ tín dụng tại các NHTMCP cho thấy Chính
sách nhân sự của
các NH được
xây dựng
khá chi tiết,
đã chuẩn
hóa hệ thống
chức
danh và định
biên nhân sự,
xây dựng
bộ chuẩn
đánh giá k ế t q u ả
l à m
v i ệ c
của
CBNV, triển
khai hệ thống
quản
lý kết quả
làm việc,
đổi
mới hệ
thống lương thưởng.
Một số NH triển
khai chương
trình đánh giá và nâng cao
năng lực
theo chuẩn
quốc
tế,
hướng đến kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo với
nhiều
kinh nghiệm
trong nước
và quốc
tế.
100% các NHTMCP trả lương
cho
CBNV làm việc theo vai trò đảm nhận của
từng
vị trí công việc,
theo năng lực
cá nhân và theo kết
quả thực
hiện
công việc.
Ngoài ra, CBNV còn được hưởng
lương, thưởng theo vị trí công việc, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, mức
độ đóng góp vào kết quả kinh doanh của đơn vị. Bên
cạnh
việc
xây dựng
chính
sách lương thưởng phù hợp, các NH cũng chú trọng đến công tác đào tạo, hoàn
thiện
kiến
thức,
kỹ năng cho CBNV theo nhiều
hình thức
đa dạng
như E
learning, tập trung, livemeeting/video conference.
Ngoài các chương
trình đào tạo
đa dạng,
các NHTMCP như Vietinbank,
Maritime Bank đã xây dựng chương trình đặc biệt dành cho các cán bộ có năng lực như Talent Pool với số lượng tham gia của gần 500 CBNV trên toàn quốc; MB quy
hoạch
nhân sự top 100, top 500, chương
trình quản
trị nhân sự tiềm
năng…
nhằm
triển
khai nhận
diện
đội
ngũ nhân viên có tiềm
năng đảm
nhiệm
vị trí
lãnh đạo trong tương lai để đưa vào đào tạo, giữ chân. Các cán bộ được tuyển
chọn từ chương trình sẽ được
hưởng
những
quyền
lợi,
chế độ đặc
biệt
cùng
chính sách đào tạo lịch trình.
ưu việt,
giúp CBNV hoàn thiện năng lực và phát triển đúng
Điển hình tại Vietinbank, phát triển đào tạo trực tuyến luôn được coi là
nhiệm vụ
trọng tâm để
nâng cao hiệu quả, tiết giảm chi phí. Từ
năm 2011,
Vietinbank đã triển khai Hệ thống đào tạo trực tuyến Elearning giúp học viên có
thể học tập mọi lúc, mọi nơi có kết nối Internet. Nội dung các bài giảng cũng
được xây dựng bao trùm hầu như toàn bộ các kỹ năng, nghiệp vụ theo khung đào tạo từng vị trí cán bộ. Kiến thức nghiệp vụ kỹ năng được cập nhật thường xuyên thông qua mô phỏng, liên hệ thực tế sinh động bằng hình ảnh, clip, tình huống, mini game, quicktest trong suốt quá trình học đã tăng tính tương tác, lôi cuốn học viên. Có thể dẫn chứng Ứng dụng Remote Expert (chuyên gia từ xa) đã hỗ trợ học viên chủ động rèn luyện tình huống thực tiễn tại nhà hoặc khi trở về chi nhánh.
Ứng dụng lớp học ảo cũng đã giúp tăng tính chủ động cho từng học viên có thể học/trao đổi với giảng viên/chuyên gia cùng các tài liệu được chia sẻ, tương tác như học offline. Mặt khác những tiện ích của ứng dụng Workplace cũng được vận dụng sáng tạo trong hoạt động đào tạo, tạo điều kiện cho học viên có cơ hội được kết nối “trực tiếp ảo” với các chuyên gia.
100% NH đánh giá kết quả làm việc
của
CBNV qua hiệu
suất
công việc
làm cơ sở xem xét phần
thưởng
và kỷ luật
tương
ứng
nhằm
tạo
động
lực
cho
CBNV. Một
số NH đã quan tâm hơn
đến
các hình thức
tạo
động
lực
khác qua
việc nâng cao sự hài lòng và sự gắn kết của CBNV đối với NH, nhằm động viên và
thúc đẩy CBNV có thể toàn tâm cống
hiến,
hoàn thành tốt
nhất
các chỉ tiêu kế
hoạch được đặt ra, từ đó nâng cao CLTD, cụ thể: Hàng năm, Techcombank đều thực hiện khảo sát đánh giá kết quả làm việc của CBNV ngoài phương thức đánh giá qua hiệu suất làm việc, theo đó hai chỉ số “gắn kết” và “sự hài lòng” luôn được
NH đánh giá cao. ACB thực
hiện
thực
hiện
khảo
sát đánh giá sự hài lòng và gắn
kết nhân viên đối với NH khi hoàn thiện dự án Khảo sát hài lòng và gắn viên vào năm 2018
kết nhân
Thứ sáu: Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động tín dụng
100% NHTMCP Việt Nam đượ c khảo sát đều
đã hoàn thiện
việc
xây
dựng kho dữ liệu tập trung giúp hỗ trợ công tác dự báo, phân tích và ra quyết định
kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng tín dụng. Việc
trao đổi thông tin nội bộ trong NH thuận tiện.
Hệ thống
thông tin cần
thiết về
hoạt
động
TD được
cập
nhật
kịp
thời
và chủ động
gửi
đến
CBTD theo phân
quyền truy cập. Một trong những phương thức truyền thông về hoạt động TD là
báo cáo thường
niên của
các NH đã thực
hiện
khá tốt.
Các chỉ số quan trọng
liên quan đến hoạt động TD như dư nợ, cơ cấu dư nợ, nợ xấu, thu nhập lãi…đều được hầu hết các NH thể hiện rõ trong báo cáo thường niên. Báo cáo thường niên của NH trước khi công bố trước công chúng đều được các công ty kiểm toán lớn
như PWC, KPMG, Earn&Young, Deloitte kiểm liệu.
toán, thể hiện độ tin cậy của dữ
Ngoài ra, ở góc độ thông tin khách hàng vay, đến thời điểm này việc kết nối của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia (CIC) đã được bao phủ khá sâu rộng. Cơ
sở dữ liệu của CIC đã có trên 40,6 triệu khách hàng vay, trong đó có khoảng
178.000 DN đang có dư nợ tại các NHTMCP Việt Nam. Hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế mà CIC xây dựng, vận hành trong thời gian qua cũng đã hỗ trợ rất tốt cho các NHTM trong hoạt động đánh giá, xác minh, thẩm định khách hàng. Từ đó giảm thiểu những rủi ro chủ quan của con người và tăng mức độ chuyên nghiệp trong quản trị rủi ro nguồn vốn, rủi ro giao dịch đến từ khách hàng vay.
Các NHTMCP Việt Nam đã chủ động nghiên cứu, đầu tư mạnh mẽ vào một số công nghệ thành tựu của nhân loại trong sản phẩm, dịch vụ, hoạt động và quản trị của mình. Nổi bật nhất là việc triển khai thực tế các công nghệ số nền tảng như: Điện toán đám mây, Phân tích dữ liệu lớn, Trí tuệ nhân tạo, các ứng dụng, giải pháp như xác thực sinh trắc học… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, làm phong phú thêm những trải nghiệm khách hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng đang có sự đầu tư lớn về hạ tầng CNTT, phần mềm corebanking thế hệ mới, triển khai các công nghệ nền tảng mới, ứng dụng các giải pháp sáng tạo theo xu hướng chung về chuyển đổi số, số hóa dịch vụ của ngành Ngân hàng với mục tiêu cuối cùng là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số theo hướng đơn giản, thân
thiện, tự Channel).
động, thông minh và tiếp cận khách hàng đa kênh đồng nhất (Omni
Hạ tầng
công nghệ thông tin luôn được
các NHTMCP Việt Nam
ưu tiên
chú trọng
đầu
tư,
đảm
bảo
công tác chấm
điểm
xếp
hạng
TD, khởi
tạo
khoản
vay, quản
lý TSBĐ, chiết
xuất
thông tin quản
lý danh mục
TD, cảnh
báo sớm
được
thực
hiện
tự động,
giảm
thiểu
lỗi tác nghiệp, thời gian xử lý và nâng cao
chất lượng thông tin. Từ năm 2014 đến năm 2018 là những năm đánh dấu bước phát triển vượt bậc về mặt công nghệ của các NHTMCP. Trong giai đoạn này, một số NH đã hoàn thành các dự án công nghệ lớn nhất từ trước đến nay nhằm hiện đại
hóa năng lực hệ thống công nghệ thông tin và tăng cường hệ thống an ninh mạng
qua việc lắp đặt hệ thống máy chủ, hệ thống dự phòng, đường truyền dự phòng…
như VIB đã hoàn thành dự án thiết lập một trung tâm dữ liệu và trung tâm khắc
phục sự cố mới đạt tiêu chuẩn quốc tế giúp NH loại bỏ được rủi ro lớn nhất về
mặt công nghệ. MB triển khai các dự án công nghệ thông tin theo giải pháp chiến lược như DW, DR – DC, BPM…
100% NHTMCP đã đầu tư phát triển nên hệ thống mạng nội bộ, theo đó toàn bộ văn bản được ban hành và lưu trữ trên kho tài liệu mạng nội bộ để toàn thể CBNV có thể truy cập và tìm hiểu khi cần thiết. Hệ thống thông tin nội bộ thực sự phát huy hiệu quả trong việc phổ biến các quy trình, đáp ứng nhu cầu lưu trữ, truy xuất nhanh chóng thông qua cách thức tìm kiếm từ khóa. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin sẽ tự động gửi các thông tin liên quan đến hoạt động TD đến CBTD theo
phân quyền.
Các thông tin về hoạt
động
TD nói riêng cũng như hoạt
động NH
được các NH truyền thông qua báo cáo thường niên, qua trang thông tin của NH, các
nguồn
thông tấn
báo chí hoặc
qua các phương
pháp truyền
thông khác. Báo cáo
thường niên là một trong những phương tiện phổ biến được các NH sử dụng để
truyền thông các thông tin về NH. Các chỉ số quan trọng liên quan đến hoạt động
TD như dư nợ, cơ cấu dư nợ, nợ xấu, thu nhập lãi…đều được hầu hết các NH thể hiện rõ trong báo cáo thường niên. Báo cáo thường niên của NH trước khi công bố
trước công chúng đều
được
các công ty kiểm
toán lớn
như PWC, KPMG, Earn
&Young, Deloitte kiểm toán, thể hiện độ tin cậy của dữ liệu.
Qua báo cáo thường niên, KH, người muốn tìm hiểu về NH có thể hiểu rõ
hơn
về tình hình hoạt
động
kinh doanh của
NH. Tuy nhiên, qua tổng quan nghiên
cứu báo cáo thường niên của các NHTM, tác giả nhận thấy báo cáo thường niên
được lập khác biệt khá rõ rệt giữa các NH. Một số NH báo cáo chỉ tiêu về hoạt
động TD đầy đủ, KH, nhà đầu tư, người muốn tìm hiểu các thông tin có thể biết được tình hình hoạt động của NH. Tuy nhiên cũng có NH chỉ báo cáo sơ sài, báo
cáo thường
niên không thể hiện
báo cáo kết
quả hoạt
động
kinh doanh, không
đính kèm thuyết
minh báo cáo tài chính hoặc
có đăng tải
báo cáo thường
niên
nhưng không thể tải được. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhóm các NHTMCP Nhà nước như Vietcombank, Vietinbank, BIDV có công tác truyền thông về hoạt động
TD khá tốt. KH, nhà đầu tư, người muốn tìm hiểu về hoạt động TD của các NH
này có thể nắm rõ được tình hình hoạt động TD của NH vì các các báo cáo cần
thiết
về hoạt động TD đều được
các NH này công khai rộng rãi trên trang mạng
thông tin.
2.3.2 Hạn chế
Bên cạnh
những
mặt
đạt
được,
hoạt
động
tín dụng
của
các NHTMCP,
vẫn
còn những
mặt
tồn
tại
và hạn
chế nhất
định
làm
ảnh
hưởng
không nhỏ
đến quy mô và chất lượng tín dụng
Thứ nhất: Việc tăng vốn của một số NHTMCP để thực hiện theo Basel 2 không dễ dàng
Các ngân hàng TMCP Nhà nước như BIDV và Vietinbank vẫn đang khó khăn trong việc tăng vốn với mức vốn điều lệ không tăng lên trong nhiều năm qua. Hạn chế về vốn khiến các ngân hàng không chỉ không đáp ứng được quy định về CAR mà còn cản trở hoạt động kinh doanh do phải đáp ứng hàng loạt các quy định khác nữa
Tính đến cuối năm 2018, Vietcombank đã được NHNN công nhận áp dụng Basell 2 thành công, là 1 trong 2 ngân hàng đầu tiên của hệ thống và duy nhất trong nhóm có vốn Nhà nước làm được điều đó. Thế nhưng như vậy không có nghĩa là yêu cầu về vốn không còn đặt ra với NH này. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng nhỏ hơn như Techcombank và VPBank đang tăng vốn sát nút và đã tăng được nguồn vốn dồi dào trong 2 năm 2017, 2018 để có nguồn cho hoạt động trong vài năm tới. Bên cạnh đó khó khăn trong việc bán vốn cho đối tác ngoại của Vietcombank là vẫn chưa hoàn tất dù đã chuẩn bị từ rất lâu. Tại BIDV, ngân hàng cũng tính bán vốn cho đối tác nước ngoài từ khi mới lên sàn vào năm 2014 nhưng đến thời điểm này vẫn chưa hoàn tất. Năm 2018, NH mới xin cổ đông thông qua việc bán 15% vốn điều lệ sau phát hành cho đối tác là ngân hàng Hana của Hàn Quốc. VietinBank năm 2018 đã hết room bán cho đối tác ngoài, trong khi chuyện sáp nhập PGBank từng được xem là công cụ tốt để tăng thêm vốn 3.000 tỷ cũng bất thành, chỉ còn trông chờ vào những thay đổi từ chính sách Nhà nước qua việc chia cổ tức và giảm sở hữu vốn Nhà nước.
Thứ hai: Quá trình xử lý nợ xấu còn nhiều khó khăn
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong thời gian qua về nỗ lực giảm nợ xấu tại các NHTMCP Việt Nam, trong quá trình triển khai công tác xử lý nợ xấu tại
các NHTMCP Việt Nam, vẫn còn một số thách thức, khó khăn cần quan tâm giải quyết như sau:
Nguồn lực tài chính cho quá trình xử lý nợ xấu
Thực tế quá trình xử lý nợ xấu cho thấy, nguồn lực tài chính chủ yếu là tự
lực của các NHTMCP Việt Nam thông qua tăng cường trích lập và sử dụng dự
phòng rủi ro để xử lý các khoản nợ xấu. Điều này cho thấy nỗ lực rất lớn của hệ thống ngân hàng thời gian qua đã tự xử lý được gần 60% số nợ xấu[20]. Việc phát hành trái phiếu đặc biệt VAMC và cho phép các ngân hàng có thể cầm cố để vay tái cấp vốn của NHNN chỉ là giải pháp hỗ trợ tạm thời, tạo thanh khoản cho các ngân
hàng khi bán nợ xấu cho VAMC nhưng thực chất không có nguồn tiền thực sự
chuyển cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho VAMC. Do đó, để xử lý nợ xấu thành công, cần có nguồn lực tài chính vững mạnh để thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu. Theo đó, cần có các phương án tài chính để mua trực tiếp và dứt điểm nợ xấu của các ngân hàng, chuyển số tiền mua nợ xấu cho các ngân hàng để ổn định kinh doanh, tăng cường hoạt động xử lý nợ xấu VAMC thông qua tái cấu trúc, bán cho
các nhà đầu tư đảm...
theo giá thị
trường, xử
lý tài sản bảo đảm, thanh lý tài sản bảo
Yêu cầu tăng vốn cho các NHTMCP Việt Nam
Trong bối cảnh thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp do ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ Trung và các vấn đề khác, qua đó, tiềm ẩn nhiều rủi ro, tác động xấu đến nền kinh tế tài chính trong nước. Hoạt động của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện còn đang gặp khó khăn về tài chính, sự thành công của quá trình cơ cấu lại hệ thống các NHTMCP Việt Nam và xử lý nợ xấu, kể cả thoái vốn ngoài ngành của các DNNN và ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào sự phục hồi của nền kinh tế, điều kiện thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, trong bối cảnh NSNN còn bội
chi, quan điểm của Chính phủ
là không sử
dụng tiền của NSNN để cơ
cấu lại
NHTMCP Việt Nam và xử lý nợ xấu, trong khi khả năng huy động các nguồn lực xã hội cho tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các TCTD còn hạn chế. Vì vậy, việc tăng vốn cho các ngân hàng, đặc biệt là các NHTMCP Nhà nước gặp nhiều khó khăn do theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu
tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định số 91/2015/NĐCP không cho phép các NHTMCP Nhà nước giữ lại lợi nhuận, sau khi trích lập các quỹ phải
trả/phải nộp cho Nhà nước; đồng thời, tại Nghị
quyết số
25/2016/QH14 ngày
09/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 2020 cũng quy định rõ việc tăng vốn điều lệ cho các NHTMCP Nhà nước không sử dụng NSNN.
Hoạt động của các NHTMCP Việt Nam
Thời gian qua, trong hoạt động các ngân hàng TMCP Việt Nam đang gặp những khó khăn trong việc xử lý nợ xấu như:
(i) Nợ xấu được xử lý bằng dự phòng rủi ro và trái phiếu đặc biệt là chủ yếu trong khi các biện pháp xử lý nợ xấu triệt để thông qua xử lý tài sản bảo đảm và khách hàng vay trả nợ còn ở mức thấp. Do đó, tính hiệu quả và triệt để trong xử lý nợ xấu còn hạn chế, nợ xấu vẫn còn tồn tại khi mà bên cho vay và bên đi vay chưa chấm dứt, tất toán được quyền và nghĩa vụ liên quan đến khoản nợ. Đẩy mạnh xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC nhận trái phiếu đặc biệt như trong thời gian qua làm ảnh hưởng đáng kể đến sự lành mạnh và an toàn hoạt động của ngân hàng, bởi toàn bộ rủi ro và chi phí xử lý nợ xấu do ngân hàng gánh chịu. Chi phí dự phòng rủi ro và trích lập dự phòng trái phiếu đặc biệt tiếp tục tăng trong các năm tới sẽ làm hạn chế kết quả kinh doanh và khả năng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng nếu nợ xấu không được xử lý triệt để theo cơ chế thị trường
(ii) Ngân hàng cũng gặp những khó khăn trong việc sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu do theo quy trình, ngân hàng phải áp dụng các biện pháp thu hồi nợ từ khách hàng trước, thậm chí, xét điều kiện của khách hàng áp dụng các biện pháp hỗ trợ (cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ, cơ cấu khoản vay...) để nâng cao năng lực tài chính của khách hàng, tăng khả năng trả nợ của khách hàng, sau đó mới có thể sử dụng dự phòng rủi ro, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ để xử lý nợ xấu thuộc nhóm 5 hoặc khoản nợ của khách hàng bị giải thể, phá sản, mất tích, chết
(iii) Khả
năng trả
nợ của khách hàng vẫn còn hạn chế
do sản xuất kinh
doanh còn khó khăn; một số khách hàng chây ỳ, ý thức trả nợ kém, không hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý TSBĐ để trả nợ; khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích