CHƯƠNG 2.
QUY TRÌNH VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC NĂNG LỰC GIÁO DỤC ĐỊA LÍ CHO SINH VIÊN NGÀNH SƯ PHẠM ĐỊA LÍ
2.1. Nguyên tắc và yêu cầu của việc phát triển năng lực giáo dục địa lí
2.1.1. Nguyên tắc của việc phát triển năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên
2.1.1.1. Đảm bảo việc phát triển năng lực địa lí là nền tảng cho việc phát triển năng lực giáo dục địa lí
Sinh viên sư phạm Địa lí phải có năng lực địa lí trước khi chuyển hóa thành năng lực GDĐL trong sự kết hợp với năng lực giáo dục. Chính vì thế năng lực GDĐL cần được phát triển dựa trên nền tảng năng lực địa lí. Nguyên tắc này thể hiện ở một số khía cạnh cụ thể sau:
- Sinh viên sư phạm Địa lí cần được đào tạo để có năng lực địa lí ở một trình độ đủ để thực hành quá trình GDĐL. Đáp ứng nguyên tắc này, việc giảng dạy chuyên ngành cho SV cần hướng đến trang bị nền tảng kiến thức, kĩ năng địa lí vững chắc và khả năng tiếp cận thông tin để họ có thể thích nghi với mọi tình huống và môi trường dạy học.
- Phát triển năng lực địa lí phải “đi trước một bước” trong tiến trình đào tạo SV sư phạm địa lí. Nguyên tắc này chỉ đạo việc thiết kế chương trình và kế hoạch đào tạo cần xác định đúng vị trí và thời điểm của các học phần chuyên ngành nhằm đảm bảo rằng SV đủ kiến thức, kĩ năng để có thể tiếp cận các học phần nghề nghiệp chuyên ngành ở những giai đoạn phù hợp.
2.1.1.2. Đảm bảo sự kết nối giữa tri thức địa lí và tri thức về khoa học giáo dục trong việc phát triển năng lực giáo dục địa lí
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Tâm Sinh Lí, Khả Năng Học Tập Của Sinh Viên Sư Phạm
- Thực Trạng Phát Triển Năng Lực Giáo Dục Địa Lí Cho Sinh Viên
- Mức Độ Áp Dụng Các Phương Pháp Phát Triển Năng Lực Gdđl Của Giv Phân Theo Chuyên Ngành Giảng Dạy
- Hợp Phần (Thành Tố) Và Các Chỉ Báo Trong Cấu Trúc Năng Lực Gdđl
- Xây Dựng Kế Hoạch Phát Triển Năng Lực Giáo Dục Địa Lí
- Danh Mục Thu Thập Đánh Giá Trong Phát Triển Năng Lực Gdđl
Xem toàn bộ 289 trang tài liệu này.
Giáo viên địa lí phải kết hợp kiến thức địa lí, kiến thức sư phạm trong kiến thức sư phạm địa lí (PCK-G) để có thể thực hành GDĐL ở trường phổ thông. Trong đào tạo SV, nguyên tắc này được cụ thể hóa trong những yêu cầu sau:
- Phải kết hợp dạy PPDH trong giảng dạy những kiến thức, kĩ năng địa lí cụ thể. Bởi vì, trên cơ sở PPDH địa lí chung, mỗi đơn vị kiến thức, kĩ năng địa lí có những đặc thù riêng về mặt phương pháp truyền đạt. Sự kết hợp này phải được thực hiện trong quá trình SV lĩnh hội chính những kiến thức, kĩ năng chuyên ngành.
- Kiến thức địa lí phổ thông cần được sử dụng trong giảng dạy PPDH địa lí. Điều này tạo ra một sự kết nối giữa kiến thức địa lí, kiến thức địa lí phổ thông và kiến thức về phương pháp. Kiến thức địa lí là chất liệu trong việc giảng dạy, thực hành PPDH địa lí, ngược lại, thực hành áp dụng PPDH địa lí nhằm mục đích làm sâu sắc kiến thức và chỉ ra con đường để hướng dẫn HS lĩnh hội tri thức địa lí phổ thông.
- Kiến thức về KHGD, PPDH nói chung phải được cụ thể hóa trong giảng dạy địa lí. GiV phương pháp cần vận dụng được phương pháp chung vào bộ môn mình giảng
dạy để SV thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của khối kiến thức này. Sử dụng phương pháp để chuyển tải nội dung, hay nói cách khác kiến thức về phương pháp được cung cấp thông qua việc SV trải nghiệm kiến thức địa lí.
2.1.1.3. Đảm bảo sự thống nhất hữu cơ giữa giảng dạy lí thuyết và thực hành nghề nghiệp trong phát triển năng lực giáo dục địa lí
Năng lực là sự vận dụng có hiệu quả kiến thức, kĩ năng, thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa. Như vậy, năng lực GDĐL chỉ có được khi SV biết cách vận dụng kiến thức, kĩ năng vào hoàn cảnh giáo dục nhất định. Trong đào tạo SV sư phạm Địa lí đó là quá trình thực hành, luyện tập trong môi trường giả lập hay mô phỏng, vì thế:
- Chương trình và tổ chức đào tạo phải đảm bảo sự phù hợp giữa dung lượng, thời lượng của khối kiến thức lí thuyết chuyên môn, lí thuyết phương pháp và khối lượng thực hành nghề nghiệp. Các học phần chuyên môn cần tích hợp hoạt động thực hành để qua đó SV rèn luyện các kĩ năng nghề nghiệp. Đối với tất cả các bộ môn PPDH không thể thiếu hoạt động thực hành NVSP thường xuyên.
- Rèn luyện NVSP phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và có lộ trình trong quá trình đào tạo SV sư phạm Địa lí. Ngoài việc tích hợp trong các học phần, GiV cần tạo ra môi trường để SV có nhiều cơ hội thực hành áp dụng lí thuyết được học vào hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, tổ chức cho SV trải nghiệm một giờ học địa lí ở trường phổ thông, tổ chức hội thi NVSP, xê-mi-na…
2.1.1.4. Đảm bảo phát huy tính chủ động, tích cực của sinh viên trong việc phát triển năng lực giáo dục địa lí
Phát triển năng lực là một quá trình tự thân, mỗi SV có một đường phát triển năng lực riêng. Chính vì thế, họ phải chủ động, tích cực rèn luyện dưới sự hướng dẫn của GiV để có năng lực, theo đó:
- Giảng viên phải hướng dẫn SV tự đánh giá năng lực của bản thân, từ đó xây dựng kế hoạch rèn luyện dựa trên đường phát triển năng lực riêng. Trong quá trình này, GiV cung cấp sự hỗ trợ, tư vấn và giải pháp mang tính định hướng để SV tự phát triển. Khuyến khích, tạo môi trường cho SV tự học, tự rèn luyện là phương pháp tối ưu nhất để đảm bảo nguyên tắc này.
- Đánh giá vì sự tiến bộ của người học phải được thực hiện trong suốt quá trình đào tạo. Xuất phát từ quan điểm đánh giá vì sự phát triển năng lực chính là so sánh sự tiến bộ của bản thân SV ở một thời điểm đánh giá với thời điểm trước đó chứ không phải so sánh giữa các SV với nhau. Môi trường rèn luyện là do GiV xây dựng để SV tham gia và thông qua những biểu hiện của SV trong môi trường đó GiV đánh giá được sự tiến bộ.
2.1.1.5. Đảm bảo tính vừa sức đối với sinh viên trong phát triển năng lực giáo dục địa lí
Đảm bảo tính vừa sức trong quá trình phát triển năng lực GDĐL cho SV yêu cầu khi giảng dạy phải lựa chọn nội dung, vận dụng PP&KT, hình thức tổ chức dạy học và đánh giá sao cho phù hợp với trình độ phát triển chung của đa số SV, đồng thời phù hợp với năng lực của từng đối tượng SV để đảm bảo cho họ có thể phát triển tối ưu với khả năng hiện tại của mình [53]. Để đảm bảo nguyên tắc này cần:
- Giảng viên cần tìm hiểu để nắm bắt được đặc điểm của SV về khả năng nhận thức, năng lực và phong cách học tập, thái độ, động cơ, lí tưởng nghề nghiệp…Điều này thường được thực hiện thông qua đánh giá sơ khởi trước khóa học, môn học. Trên cơ sở đó GiV dự kiến về những tác động sư phạm phù hợp với đặc điểm của SV.
- Trong quá trình rèn luyện năng lực GDĐL, GiV cần thiết kế nhiệm vụ học tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; từ tiếp nhận kiến thức đến hình thành kĩ năng để có khả năng vận dụng vào những tình huống quen thuộc sau đó là vận dụng vào những tình huống mới để SV có năng lực hành động. Quá trình này phải được thường xuyên theo dõi để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và học.
- Giảng viên cần cá biệt hóa quá trình phát triển năng lực GDĐL trên cơ sở phân loại SV theo trình độ, hứng thú và năng khiếu nghề nghiệp. Có nghĩa là: từ nhiệm vụ học tập chung, mục tiêu, nhiệm vụ và hướng dẫn, hỗ trợ được cụ thể hóa cho từng đối tượng, nhóm SV để thúc đẩy sự tiến bộ của họ dựa trên khả năng hiện tại trên đường phát triển năng lực nhằm thúc đẩy “vùng phát triển gần” và chuẩn bị cho những bước phát triển kế tiếp.
2.1.2. Yêu cầu của việc phát triển các năng lực giáo dục địa lí
2.1.2.1. Yêu cầu đối với giảng viên
Trong mô hình đào tạo SV sư phạm Địa lí hiện nay, các nhóm GiV đảm nhận các vai trò khác nhau: Giảng dạy các học phần chuyên ngành chuẩn bị cho SV năng lực nắm vững tri thức khoa học địa lí, giảng dạy nghiệp vụ chuẩn bị cho SV phương pháp để hướng dẫn HS tự lực chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng bộ môn Địa lí. Nội dung và phương pháp liên quan chặt chẽ với nhau, chính vì vậy 2 nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết trong tiếp cận đào tạo tích hợp. Dưới đây gọi chung là GiV sư phạm địa lí, họ cần đáp ứng những yêu cầu sau:
Giảng viên sư phạm địa lí cần nền tảng tri thức địa lí sâu sắc và năng lực giảng dạy chuyên nghiệp. Bởi vì, phương pháp giảng dạy là cách thức để thực hiện có hiệu quả mục tiêu hình thành và phát triển kiến thức, kĩ năng địa lí cho SV. Mặt khác, mỗi loại kiến thức, kĩ năng địa lí có những cách thức dạy học đặc thù. Chính vì thế, giảng dạy chuyên môn phải “thấm đậm” tính nghiệp vụ để góp phần hình thành năng lực dạy
học những nội dung địa lí cụ thể cho SV. Ngược lại, việc đào tạo nghiệp vụ cần giúp giáo sinh nắm vững nội dung chương trình giáo dục địa lí ở trường phổ thông, đồng thời kết nối được tri thức khoa học địa lí được cung cấp ở các học phần chuyên ngành và kiến thức bộ môn địa lí trong nhà trường phổ thông để chứng minh cho SV vì sao các nhà lí luận dạy học lại khẳng định “học mười, dạy một” [98].
Giảng viên sư phạm địa lí phải am hiểu thực tiễn GDĐL ở trường phổ thông. Yêu cầu này là tất yếu và cần thiết đối với việc phát triển năng lực GDĐL cho SV. Bởi vì, chức năng cơ bản của các trường sư phạm là cung cấp đội ngũ GV địa lí có chất lượng cho các cơ sở GDPT, trong giai đoạn hiện nay, nhằm để đáp ứng kịp thời chiến lược đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Mặt khác, việc am hiểu GDĐL phổ thông sẽ giúp GV điều chỉnh quá trình dạy học phù hợp với thực tiễn về cả nội dung và phương pháp. Thực tế phổ thông được đưa vào các bài giảng sẽ chuẩn bị tâm thế và kĩ năng để SV tự tin hơn trong thực tập sư phạm và giảng dạy sau khi ra trường.
Giảng viên sư phạm địa lí cần am hiểu SV cũng như những khó khăn SV gặp phải trong quá trình học tập và rèn luyện để có năng lực nghề nghiệp. Hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lí và nhận thức, đặc điểm và phong cách học tập, nhu cầu và động cơ nghề nghiệp, đời sống tình cảm và những khó khăn SV gặp phải…sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình phát triển năng lực nghề nghiệp. Đó là những kì vọng, tuy nhiên thực tế GiV sư phạm địa lí trong chừng mực của việc giảng dạy và giáo dục sẽ tập trung vào việc nắm bắt nhu cầu và động cơ học tập của SV trong từng học phần, năng lực và phong cách học tập cũng như những khó khăn SV thường gặp để có những tác động phù hợp.
Giảng viên sư phạm địa lí phải là người truyền lửa yêu ngành, yêu nghề, yêu bộ môn Địa lí cho SV [98]. Bởi vì đạo đức và thái độ nghề nghiệp là một trong ba thành tố hình thành nên năng lực nghề của GV và “chỉ đạo” toàn bộ quá trình hoạt động nghề nghiệp đi đúng con đường và bản chất đích thực [37, tr.17]. Trong quá trình đào tạo, GiV phải giúp SV hình thành được tình cảm yêu nghề, lòng tự hào về nghề nghiệp. Để truyền lửa cho SV, thì mỗi GiV sư phạm địa lí cần phải thực sự yêu nghề, trân quý môn Địa lí và là nguồn cảm hứng nghề nghiệp cho SV, tận tụy với nghề về yêu thương SV. Điều quan trọng là GV phải biết cách lan tỏa những giá trị đó đến với SV và thúc đẩy họ vượt qua được những rào cản của bản thân và áp lực của dư luận để trở thành những GV địa lí chân chính. Giáo dục tình cảm và thái độ nghề nghiệp cần phải được tích hợp và thực hành thường xuyên trong suốt quá trình cũng như chương trình đào tạo, trong tất cả các bộ môn và hoạt động.
2.1.2.2. Đối với sinh viên
Phát triển năng lực là quá trình tự thân và chỉ có thể đạt kết quả bằng sự nỗ lực của chính bản thân SV, GiV và các yếu tố khác định hướng và hỗ trợ quá trình này. Chính vì thế, để có năng lực GDĐL, SV cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau đây:
Sinh viên chịu trách nhiệm về việc học tập và rèn luyện của mình, là người chủ động tìm kiếm tri thức và phát triển kĩ năng. Họ phải là người tự kiến tạo tri thức, kĩ năng địa lí và GDĐL dựa trên những trải nghiệm đã có và thông qua việc tạo lập sự tương tác với GiV, bạn học và môi trường. Để thực hiện được điều này, SV cần có tâm thế chủ động, tích cực xây dựng tri thức cho mình, không được có thái độ trông cậy hay dựa dẫm vào người khác; có thói quen huy động kiến thức và kinh nghiệm đã có của bản thân để làm cơ sở cho việc kiến tạo kiến thức mới [100].
Dưới sự hướng dẫn của GiV, SV phải xác định được năng lực hiện tại của bản thân và tự xây dựng kế hoạch để phát triển năng lực GDĐL. Yêu cầu này được lí giải xuất phát từ lý thuyết về đường phát triển năng lực của mỗi SV là không giống nhau. Chính vì thế không có một công thức cho việc rèn luyện các năng lực mà trên cơ sở quy trình chung họ cần cá thể hóa thành cách thức phát triển năng lực cho riêng mình. Kế hoạch phát triển năng lực được SV xây dựng dựa trên năng lực họ đã có và những kì vọng ở trình độ cao hơn.
Sinh viên phải có phương pháp tự học, tự rèn luyện để có năng lực GDĐL. Tự học là phương pháp học tập chủ yếu, quyết định kết quả học tập ở bậc đại học. Để tự học có hiệu quả, SV cần có các kĩ năng như: tổ chức quá tình tự học, tự luyện tập, kĩ năng đọc sách, kĩ năng tìm kiếm, xử lí và tổng hợp thông tin…Trong luyện tập kĩ năng, SV cần biết cách tự điều chỉnh các thao tác, quy trình để đáp ứng các tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá. Quá trình tự học đạt kết quả tốt hơn nếu SV không thực hiện trong sự cộng tác với bạn học, vì thế năng lực giao tiếp và hợp tác là một trong những năng lực chung quan trọng.
2.1.2.3. Về cơ sở vật chất
Nguồn học liệu phục vụ quá trình đào tạo cần được trang bị cơ bản, SV, GiV có khả năng tiếp cận một cách dễ dàng. Giáo trình, tài liệu tham khảo về chuyên ngành địa lí, PPDH nói chung, PPDH địa lí cần đảm bảo về số lượng và chất lượng. Nên tăng cường ứng dụng CNTT&TT để quản lí và cung cấp tài liệu tham khảo nhằm tăng khả năng tiếp cận của SV. Nguồn học liệu này phải được cập nhật thường xuyên để đáp ứng những xu hướng đổi mới giáo dục và dạy học.
Phòng thực hành NVSP nên được đầu tư để phục vụ việc luyện tập các kĩ năng dạy học. Diện tích phòng cần đủ lớn để đáp ứng đủ số lượng SV, GiV, người hỗ trợ và quan sát. Bài trí tương tự không gian lớp học, tạo ra không gian kích thích sự sáng tạo. Trang thiết bị cần có gồm bảng viết phấn, máy tính, máy chiếu, bàn ghế linh hoạt, máy quay,
đồ dụng dạy học địa lí (SGK, các tập bản đồ, atlat, mô hình địa lí, công cụ địa lí học…). Ngoài ra, cần trang bị thêm gương treo tường để phục vụ việc SV tự tập một số kĩ năng sư phạm. Trong điều kiện lí tưởng, phòng thực hành nên thiết kế kính một chiều để người học không thể nhận thấy có sự tham gia của dự giờ hay GV.
Hạ tầng CNTT & TT được trang bị để hiện đại hóa quá trình đào tạo và nâng cao chất lượng phát triển năng lực GDĐL. Thiết lập các điểm truy cập Internet tốc độ cao tại các giảng đường, kí túc xá, khu tự học, phòng thực hành NVSP; hỗ trợ SV tiếp cận những gói cước viễn thông ưu đãi phục vụ học tập. Hỗ trợ GiV, SV các phần mềm bản quyền phục vụ học tập trực tuyến, học tập kết hợp (Blended Learning), thiết kế phương tiện dạy học địa lí. Các kênh cung cấp thông tin, học liệu phải dễ dàng tiếp cận đối với SV và GV để hạn chế tình trạng lãng phí tài nguyên.
2.1.2.4. Chương trình và tổ chức đào tạo
Chương trình đào tạo SV sư phạm địa lí cần được cải tiến thường xuyên theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp, cụ thể:
Thứ nhất, tích hợp nhuẫn nhuyễn giữa kiến thức, kĩ năng và đạo đức nghề nghiệp trong toàn bộ chương trình khung và các học phần. Trong đó, chú ý tích hợp PPDH các nội dung cụ thể trong các học phần chuyên ngành địa lí và tích hợp kiến thức địa lí phổ thông trong các học phần PPDH. Dựa trên định hướng này, giáo trình nên xây dựng theo hướng phát triển năng lực theo tiếp cận hoạt động.
Thứ hai, tăng cường yếu tố trải nghiệm trong thiết kế và tổ chức phương thức đào tạo. Thực địa địa lí tổng hợp cần được tổ chức khoa học, chặt chẽ có phương pháp, nhất là khâu quan sát và đánh giá. Thực tế môn học nên được thực hiện thường xuyên hơn và cân nhắc đưa thành một bộ phận của học phần. Các hoạt động này nhằm cung cấp kiến thức thực tiễn và nhất là phát triển năng lực quan sát cho SV. Tiếp đó, tham quan, dự giờ, trải nghiệm tại trường thực hành sư phạm, trường phổ thông được triển khai có kế hoạch ngay từ khi SV bước chân vào trường sư phạm để các em có định hướng nghề nghiệp từ ban đầu.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả thực hành NVSP thường xuyên trong các học phần PPDH địa lí trong và ngoài lớp học. Việc tổ chức giảng dạy phải đảm bảo cho SV có cơ hội thực hành liên tục các kĩ năng dạy học trong các hình thức đa dạng bao gồm: trên lớp, ở phòng thực hành NVSP, trong lớp học giả định, trên đối tượng HS thực, trong nhóm nhỏ có GiV hướng dẫn, trong nhóm tự luyện tập, luyện tập cá nhân. Thêm vào đó, chương trình nên được thiết kế tinh gọn, linh hoạt để SV có thể chủ động xây dựng kế hoạch phát triển năng lực phù hợp với từng cá nhân.
2.1.2.5. Yêu cầu đối với các cơ sở thực tập sư phạm
Thực tập sư phạm (TTSP) có vai trò rất quan trọng trong chương trình đào tạo GV. Đối với SV, TTSP giúp học vận dụng kiến thức chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp được đào tạo vào hoàn cảnh dạy học thực tế. Qua TTSP SV được bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức và niềm tin với nghề dạy học. Chính vì thế, các cơ sở TTSP có nhiệm vụ rất quan trọng, họ cần đáp ứng các yêu cầu sau:
Về cơ chế phối hợp, các cơ sở TTSP cần phối hợp chặt chẽ với các cơ sở đào tạo SV trong tổ chức, quản lí, hướng dẫn, đánh giá quá trình thực hành nghề nghiệp của SV. Các trường trung học cần xem nhiệm vụ hướng dẫn SV thực tập là nhiệm vụ bắt buộc, thường xuyên bởi họ là “khách hàng tiêu thụ sản phẩm” của các đại học sư phạm. Phối hợp giữa các trường sư phạm và các cơ sở TTSP nên thực hiện theo cơ chế cộng đồng trách nhiệm – nghĩa vụ thay cho cơ chế “nhờ – giúp đỡ” [90] như vẫn đang diễn ra hiện này. Quá trình này thực hiện thông qua quy chế TTSP chặt chẽ được thiết kế theo định hướng chuẩn nghề nghiệp GV trung học.
Đội ngũ GV hướng dẫn thực tập cần có trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm vững vàng. Giáo viên thể hiện sự đổi mới thường xuyên về PPDH địa lí và cập nhật chương trình GDPT. Họ là những GV tâm huyết có khả năng truyền cảm hứng nghề nghiệp cho SV. Là những GV có khả năng cộng tác tốt và có thể kết nối với nhà trường, HS nhất là những người làm công tác quản lí trong trường. Ngoài ra, GV hướng dẫn cần có năng lực hiểu SV, sẵn sàng chấp nhận những hạn chế của SV và nỗ lực để thúc đẩy sự tiến bộ của các em.
2.2. Xác định năng lực giáo dục địa lí và phát triển năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên
2.2.1. Xác định cấu trúc năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên
Cấu trúc năng lực GDĐL được xây dựng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của SV sư phạm địa lí trong quá trình rèn luyện các năng lực GDĐL. Điều này được thể hiện ở khả năng định hướng của cấu trúc năng lực thông qua các bộ tiêu chí đánh giá cụ thể; Đồng thời, làm cơ sở để đánh giá và ghi nhận thành tích của SV dựa trên đường phát triển năng lực. Trên cơ sở đó, GiV có những tác động, hỗ trợ kịp thời cho quá trình hình thành và phát triển năng lực nghề nghiệp của SV. Đối với GiV, cấu trúc năng lực GDĐL giúp họ quản lí, cải tiến quá trình dạy học về cả nội dung và phương pháp nhằm giúp SV đạt được các chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo.
Nghiên cứu sinh vận dụng quy trình xây dựng chuẩn năng lực được đề xuất trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan Phương và đồng nghiệp [87] để xây dựng cấu trúc năng lực GDĐL cho SV sư phạm địa lí. Đây là một trong số những nghiên cứu đầy đủ và cập nhật về chương trình tiếp cận năng lực và đánh giá năng lực người học ở nước ta hiện
này. Theo đó, trên cơ sở Định nghĩa năng lực GDĐL, NCS xác định các hợp phần (thành tố) cấu thành năng lực; tiếp đó, xác định các chỉ báo tương ứng với mỗi hợp phần và mô tả chỉ số chất lượng hành vi tương ứng với mỗi chỉ báo; cuối cùng là thiết lập đường phát triển năng lực và mô tả chi tiết.
Bên cạnh đó, NCS đã phân tích chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo SV sư phạm địa lí của nhiều trường ĐH, nhất là chương trình của các trường sư phạm trọng điểm Quốc Gia trước khi quyết định khung năng lực dự thảo. Các chương trình của Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm TP. HCM, Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng, Khoa Sư phạm xã hội – Đại học Sài Gòn, Khoa Sư phạm – Đại học Cần Thơ, Khoa Sư phạm – Đại học An Giang, Khoa Sư phạm Sử Địa Giáo dục công dân – Đại học Đồng Tháp [28],[29], [30], [31], [32], [33], [34]. Trong số các chương trình này, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo GV địa lí của khoa Địa lí – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được đánh giá là toàn diện, cập nhật và tương thích nhiều hơn đối với cấu trúc năng lực GDĐL được đề xuất trong luận án.
Khung năng lực GDĐL, sau đó, được tham vấn ý kiến các chuyên gia GDĐL hàng đầu hiện nay ở Việt Nam, các chuyên gia thiết kế chương trình GDĐL phổ thông. Trên cơ sở kết quả tham vấn, NCS tiến hành hoàn thiện mô tả các chuẩn năng lực. Để đảm bảo tính khoa học và độ tin cậy của cấu trúc năng lực được xây dựng, định nghĩa năng lực, quy trình và khung năng lực GDĐL được trình bày và phản biện tại Hội thảo quốc tế về đổi mới sáng tạo trong dạy học và đào tạo/ bồi dưỡng GV (1st international conference on innovation in learning instruction and teacher education) dưới công bố: “Xác định các năng lực giáo dục địa lí cho giáo viên đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới” [153]. Tại đây, sau những phản biện của các chuyên gia trong và ngoài nước, NCS một lần nữa điều chỉnh khung năng lực cho phù hợp với lí luận và thực tiễn.
2.2.2. Cấu trúc năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên sư phạm địa lí
Các hợp phần (thành tố) năng lực trong cấu trúc năng lực GDĐL mô tả các hoạt động thuộc lĩnh vực chuyên môn địa lí, NVSP và các lĩnh vực liên quan, mà sự tổng hòa các yếu tố này tạo nên khả năng nghề nghiệp của người GV địa lí, bao gồm: i) Năng lực đặc thù của khoa học địa lí (Năng lực địa lí), ii) Năng lực vận dụng tri thức KHGD vào GDĐL ở trường phổ thông (Năng lực giáo dục), iii) Năng lực bổ trợ. Năng lực GDĐL là một "hệ thống động" bởi vì nó luôn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như sự phát triển KT - XH, cách mạng công nghệ, đổi mới GD&ĐT…Điều đó có nghĩa là GV địa lí phải luôn luôn cải thiện năng lực của họ để có thể đáp ứng các yêu cầu thực tế (hình 2.1, bảng 2.1 và phụ lục 2.1).
Năng lực địa lí là khả năng người GV vận dụng tổng hợp tri thức về khoa học địa lí vào việc giáo dục và nghiên cứu địa lí. Đó là tri thức về phương pháp luận của khoa