Mức Độ Áp Dụng Các Phương Pháp Phát Triển Năng Lực Gdđl Của Giv Phân Theo Chuyên Ngành Giảng Dạy


điểm đánh giá lần lượt là 4,25; 3,96; 4,17; 4,02 điểm. Dạy học vi mô phương pháp huấn luyện là hai phương pháp “hiếm khi” được áp GiV áp dụng với điểm số là 2.80 và 2.73/5 . Đồng thời, SV cũng cho điểm đánh giá thấp nhất đối với hai phương pháp này là 3.16 và 3.14 điểm. Đây là hai phương pháp đặc trưng và có nhiều ưu điểm đổi với việc rèn luyện các năng lực dạy học cho SV, tuy nhiên mức độ áp dụng lại rất hán chế. Để chắc chắc về kết quả này tác giả đã thống kê về tỉ lệ lựa chọn cụ thể đối với 2 phương pháp này theo 5 mức độ. Hình 1.13 cho thấy tỉ lệ GiV “không thực hiện” tới “thỉnh thoảng” chiếm 72,5% trong phương pháp vi mô và 77,5% trong phương pháp huấn luyện. Trong khi đó, GV phổ thông cho rằng hai phương pháp này là cần thiết cho việc phát triển năng lực GDĐL cho SV trong quá trình đào tạo. Đây là một trong những vấn đề đặt ra cho nghiên cứu.

Hình 1 12 Mức độ áp dụng PPDH vi mô và huấn luyện của GiV trong đào tạo So 1

Hình 1.12. Mức độ áp dụng PPDH vi mô và huấn luyện của GiV trong đào tạo

So sánh giữa GiV chuyên môn và GiV phương pháp cho thấy Không có sự khác biệt về mức độ áp dụng các phương pháp giảng dạy. Kết quả này được đưa ra dựa vào kiểm định ANOVA có giá trị Sig của Levene là 0.189 (> 0.05) nên phương sai của các nhóm là đồng nhất, phân tích tiếp giá trị Sig của ANOVA là 0.398 (> 0.05). Sử dụng giá trị trung bình để phân tích chi tiết hơn kết quả này. Các phương pháp: làm mẫu (3,73), dạy học vi mô (3,36), đóng vai (3,36), dự án (3,55), huấn luyện (3,0) được GiV bộ môn phương pháp sử dụng nhiều hơn so với GiV chuyên môn. Kết quả này là hoàn toàn phù hợp với nhận định trước khi tiến hành khảo sát vì đây là nhưng phương pháp đặc thù để rèn luyện các kĩ năng giảng dạy cho SV.

Bảng 1.4. Mức độ áp dụng các phương pháp phát triển năng lực GDĐL của GiV phân theo chuyên ngành giảng dạy



Các phương pháp

Điểm trung bình (TB)

Địa lí tự nhiên

Địa lí KT-XH

Bản đồ, GIS, viễn thám

Phương pháp giảng dạy

Đàm thoại/ đàm thoại gợi mở

4,46

4,29

4,50

4,27

Giảng giải/ giảng thuật

4,31

4,00

4,50

4,00

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 289 trang tài liệu này.


Dạy học vi mô

2,69

2,57

2,00

3,36

Tổ chức SV viên thuyết trình

4,00

4,21

4,50

4,18

Phương pháp đóng vai

3,15

3,00

3,00

3,36

Phương pháp tình huống

3,69

3,71

3,00

3,64

Phương pháp làm mẫu

3,23

3,21

3,00

3,73

Sử dụng phương tiện trực quan

4,62

4,36

4,50

4,55

Tổ chức hoạt động nhóm

4,15

4,43

3,50

4,73

Dạy học dựa trên dự án

3,23

3,14

2,00

3,55

Phương pháp huấn luyện

2,62

2,64

2,50

3,00

So sánh mức độ thường xuyên của việc áp dụng phương pháp trong đánh giá của GiV và SV với mức độ cần thiết trong đánh giá của GV phổ thông cũng bằng kiểm định ANOVA. Cách thực hiện:Trường hợp 1: Nếu Sig Levene > 0.05 thì dùng Sig ANOVA. Nếu Sig ANOVA < 0.05 thì có sự khác nhau, còn > 0.05 thì không có sự khác nhau Trường hợp 2: Nếu Sig Levene < 0.05 thì dùng Sig của Robust. Nếu Sig Robust < 0.05 thì có sự khác nhau, còn > 0.05 thì không có sự khác nhau. Kết quả cho thấy 9 trên 12 cặp có sự khác nhau giữa mức độ thực hiện của GiV so với mức độ đánh giá là cần thiết của GV phổ thông (bảng 1.4 và phụ lục 1.6).

Phương pháp đóng vai, tình huống, dạy học dựa trên dự án, huấn luyện là những phương pháp được GV địa lí phổ thông cho rằng “cần thiết” đối với việc hình thành và phát triển năng lực GDĐL, tuy nhiên mức độ áp dụng trong quá trình đào tạo là không thường xuyên (“thỉnh thoảng”) theo đánh giá của SV và GiV. Ngược lại, Phương pháp giảng giải và giảng thuật được GiV sử dụng “thường xuyên” nhưng GV cho rằng nó tác động ở mức “bình thường” đối với SV trong học tập các môn PPDH.

GiV áp dụng thường xuyên các phương pháp: đàm thoại, đàm thoại gợi mở, tổ chức hoạt động nhóm, tổ chức cho SV thuyết trình và sử dụng phương tiện trực quan trong quá trình đào tạo SV sư phạm và các phương pháp này cũng được GV đánh giá “cần thiết” đối với SV.

Dạy học vi mô và Phương pháp làm mẫu là những phương pháp đặc thù trong rèn luyện các kĩ năng dạy học cho SV, tuy nhiên mức độ áp dụng còn hạn chế, và GV cũng không đánh giá cao vai trò của 2 phương pháp này. Có thể lí giải một phần từ việc GV chưa thực sự hiểu về bản chất và giá trị của dạy học vi mô đối với việc hình thành và phát triển năng lực GDĐL cho SV sư phạm.

1.5.4. Chương trình đào tạo sinh viên sư phạm Địa lí ở các cơ sở thuộc khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long

1.5.4.1. Mục tiêu và chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo

Mục tiêu chung của các chương trình đều được cải tiến để hướng đến việc đào tạo GV địa lí phát triển toàn diện về phẩm chất, năng lực chuyên môn, năng lực giảng dạy


chuyên ngành để đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện tại và tương lai. Được diễn đạt khác nhau, một cách tổng thể, các chương trình theo đuổi những mục tiêu sau:

- Đào tạo cử nhân sư phạm địa lí có phẩm chất chính trị, đạo đức, có lòng yêu nghề.

- Sinh viên tốt nghiệp nắm vững tri thức cơ bản về khoa học địa lí và PPDH địa lí để có thể giảng dạy ở trường phổ thông, đồng thời đáp ứng các chuẩn nghề nghiệp của GV.

- Sinh viên sau khi tốt nghiệp có khả năng tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và yêu cầu đổi mới GDPT trong tương lai.

- Ngoài ra, SV tốt nghiệp có thể hoạt động trong các lĩnh vực khác có liên quan đến ngành đào tạo như nghiên cứu địa lí, du lịch…

Tất cả 5 chương trình đều thiết kế chuẩn đầu ra dựa trên Chuẩn đầu ra trình độ đại học khối ngành đào tạo giáo viên THPT do Bộ GD&ĐT ban hành năm 2012. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn, phân loại, cấu trúc là không giống nhau xuất phát từ quan điểm tiếp cận của mỗi cơ sở đào tạo. Trường Đại học Sư phạm TP HCM và ĐH Đồng Tháp diễn đạt thành các phẩm chất và năng lực (năng lực chung, năng lực nghề nghiệp); Trường Đại học Sài Gòn và Đại học Cần Thơ trình bày theo 3 nhóm: kiến thức, kĩ năng, thái độ; Trường Đại học An Giang lựa chọn một cách trình bày khác, các tiêu chuẩn được chia thành 4 nhóm: Kiến thức và lập luận ngành, kĩ năng, phẩm chất cá nhân và nghề nghiệp, kĩ năng và phẩm chất giữa các cá nhân, năng lực thực hành nghề. Những điểm chung về chuẩn đầu ra của các trường là:

- Phẩm chất: Phẩm chất chính trị, đạo đức, trách nhiệm công dân; phẩm chất và tác phong nghề nghiệp.

- Năng lực chuyên môn: Kiến thức, kĩ năng liên quan đến đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu khoa học địa lí.

- Năng lực nghề nghiệp: Kiến thức, kĩ năng về lí luận và phương pháp giáo dục nói chung và GDĐL nói riêng.

- Năng lực chung: Kiến thức, kĩ năng nền tảng để học tập, nghiên cứu và phát triển nghề nghiệp.

1.5.4.2. Cấu trúc chương trình và nội dung đào tạo

Chương trình khung của các trường được trình bày theo những cấu trúc không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, điểm chung giữa các chương trình này là: Các học phần có thể được phân chia vào bốn nhóm: Khối kiến thức chung/ đại cương, khối kiến thức cơ sở chung, khối kiến thức chuyên ngành, khối kiến thức thực tập nghề nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, các học phần thay thế.

- Khối kiến thức chung/đại cương: Bao gồm các môn học về kiến thức giáo dục chính trị, pháp luật, ngoại ngữ, tin học, giáo dục thể chất, an ninh – quốc phòng. Dung lượng chiếm hơn 18 % tổng số tín chỉ và tương đối đồng nhất giữa các trường.


- Khối kiến thức cơ sở chung: gồm các học phần liên quan đến khoa học giáo dục và sư phạm như Nhập môn nghề nghiệp, Giáo dục học đại cương, Giáo dục học phổ thông, Tâm lí học, Phương pháp nghiên cứu khoa học. Khối kiến thức này chiếm tỉ trọng thấp nhất trong toàn bộ chương trình đào tạo (9 %).

- Khối kiến thức chuyên ngành: Các học phần có thể được chia thành 2 nhóm

+ Khối kiến thức về khoa học địa lí: Khối kiến thức này đảm bảo cho SV có kiến thức, kĩ năng địa lí một cách đầy đủ và hệ thống. Các môn học bao gồm: Bản đồ, GIS, Địa chất, Địa lí tự nhiên đại cương, Địa lí kinh tế – xã hội đại cương, Địa lí thế giới, Địa lí Việt Nam, Địa lí địa phương, Phương pháp nghiên cứu khoa học địa lí...Với dung lượng gần 50 % và có tỉ trọng lớn nhất.

+ Khối kiến nghề nghiệp chuyên ngành: gồm những môn học liên quan đến phương pháp giảng dạy chuyên ngành như: Lí luận và PPDH địa lí, Phát triển chương trình dạy học địa lí, Kiểm tra đánh giá trong dạy học địa lí, Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên môn Địa lí, ứng dụng CNTT&TT trong dạy học Địa lí, Phương pháp dạy học Địa lí ở trường phổ thông. Khối kiến thức này chiếm tỉ trọng khoảng 12 % dung lượng cuả chương trình đào tạo.

- Khối kiến thức thực tập nghề nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, các học phần thay thế: Thực tập sư phạm, khóa luận tốt nghiệp, tiểu luận tốt nghiệp, các học phần thay thế chiếm 11%.


Hình 1 13 Cơ cấu các khối kiến thức trong chương trình đào tạo SV sư phạm 2

Hình 1.13. Cơ cấu các khối kiến thức trong chương trình đào tạo SV sư phạm Địa lí của 5 cơ sở ở ĐNB&ĐBSCL (%)


Hình 1 14 Tỉ lệ trung bình cộng giữa các khối kiến thức trong chương trình 3

Hình 1.14. Tỉ lệ trung bình cộng giữa các khối kiến thức trong chương trình đào tạo SV sư phạm địa lí của 5 cơ sở ở ĐNB&ĐBSCL (%)

Như vậy, trừ khối kiến thức đại cương, kiến thức chuyên ngành địa lí chiếm trung bình 50%, kiến thức sư phạm và sư phạm địa lí chiếm hơn 30% khối lượng chương trình đào tạo. Về mặt lí thuyết, tỉ lệ này là hợp lí trong việc đào tạo SV sư phạm địa lí “vững chuyên môn, thạo nghiệp vụ”.

1.5.5. Đánh giá thực trạng phát triển năng lực giáo dục địa lí

Trên cơ sở khảo sát GiV, GV phổ thông, SV ngành sư phạm địa lí cũng như nghiên cứu chương trình đào tạo của 5 cơ sở thuộc khu vực ĐNB&ĐBSCL, thực trạng phát triển năng lực GDĐL được khái quát như sau:

Trong cấu trúc năng lực GDĐL, SV ngành sư phạm địa lí ở giai đoạn sau của quá trình đào tạo thể hiện họ tự tin hơn ở thành tố Năng lực đặc thù địa lí so với Năng lực vận dụng tri thức KHGD vào GDĐL Năng lực bổ trợ. Nhận định này cũng phù hợp với đánh giá của GiV và GV địa lí phổ thông. Đối với năng lực phương pháp, SV thể hiện ưu thế hơn ở khả năng Vận dụng PP&KT, hình thức dạy học và GDĐL; Thiết kế và sử dụng các phương tiện GDĐL; Thiết kế và tổ chức được các kế KHBD trong GDĐL so với Thực hiện được các nghiên cứu về khoa học địa lí, khoa học GDĐL; Giải thích được chương trình GDPT và chương trình môn Địa lí; Phát triển chương trình và xây dựng được kế hoạch đánh giá GDĐL. Thực tế này đặt ra cho nghiên cứu vần đề cần giải quyết đó là: Giải pháp nào cho việc nâng cao hiệu quả phát triển năng lực phương pháp cho SV để đáp ứng chuẩn đầu ra được quy định trong chương trình đào tạo?

Các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển năng lực GDĐL gồm: GiV, SV, chương trình đào tạo, phương thức đào tạo, kiểm tra - đánh giá và học liệu - cơ sở vật chất kĩ thuật. Các yếu tố này tác động đồng bộ đến quá trình đào tạo. Trong đó, vai


trò của GiV, phương thức đào tạo và chính nội lực của bản thân SV quyết định đến chất lượng quá trình này. Trên cơ sở kết quả đánh giá tác động ở những phương diện cụ thể của từng yếu tố, NCS đề xuất các biện pháp, phương thức phát triển năng lực GDĐL một cách phù hợp và thực tiễn.

Các biện pháp phát triển năng lực GDĐL được vận dụng đa dạng trong quá trình đào tạo gồm các nhóm: Tích hợp, phương pháp, trải nghiệm, ứng dụng CNTT&TT và đánh giá. Tuy nhiên, mức độ thường xuyên là không đồng đều, tập trung nhiều hơn vào nhóm biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT&TT so với đổi mới đánh giá, tích hợp và trải nghiệm. Đối với các phương pháp cụ thể, ưu thế vẫn thuộc về nhóm các phương pháp truyền thống như: giảng giải, đàm thoại, thuyết trình, các phương pháp đặc thù trong rèn luyện năng lực cho SV được sử dụng ít thường xuyên hơn. Định hướng đổi mới quá trình đào tạo được trình bày cụ thể trong chương trình khung, tuy nhiên thực hiện định hướng đó còn nhiều vấn đề cần điều chỉnh, cải tiến. Kết quả này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nghiên cứu, trước khi đề xuất các biện pháp phát triển năng lực GDĐL cho SV.

Như vậy, chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo GV địa lí khu vực ĐNB và ĐBSCL thể hiện tính cập nhật, hiện đại và đổi mới trong mục tiêu, chuẩn đầu ra, nội dung, phương thức đào tạo và đánh giá kết quả. Trong thực thi chương trình, việc vận dụng ở mức độ khác nhau theo từng nhóm vấn đề và từng cơ sở đào tạo. Kết quả khảo sát thực trạng cung cấp một đánh giá khái quát về năng lực của SV so với chuẩn đầu ra của chương trình; mức độ tác động của các biện pháp và hiệu quả đối với quá trình phát triển năng lực GDĐL cho SV; kết quả cũng như hạn chế của việc áp dụng các phương pháp giảng dạy cụ thể.

Thực trạng trên, bước đầu có thể được giải thích bằng nhiều nguyên cả về khách quan và chủ quan. Chất lượng đầu vào ở hầu hết các trường trong một giai đoạn có xu hướng giảm, thể hiện qua chỉ tiêu và điểm tuyển sinh. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng học tập của SV ở bình diện chung. Bên cạnh đó, cơ hội tìm kiếm việc làm sau tốt nghiệp bị thu hẹp đã tác động đến tâm lí và động cơ học tập của một bộ phận SV ngành sư phạm địa lí. Về chính sách, ngành sư phạm nói chung và sư phạm địa lí nói riêng ở nhiều cơ sở đào tạo thuộc ĐNB&ĐBSCL chưa được đầu tư thỏa đáng và đồng bộ về chương trình, cơ sở vật chất - kĩ thuật và thực hành nghề nghiệp. Đó là chưa tính đến tác động của đại dịch Covid 19 trong gần 3 năm qua, khi mà hơn một nửa thời gian SV phải học tập trực tuyến. Về phương diện chủ quan, việc thực thi, áp dụng chưa đáp ứng kịp nhưng cải tiến trong chương trình đào tạo về cả mục tiêu, phương pháp đào tạo và đánh giá. Phương pháp giảng dạy đổi mới còn chậm, chưa đồng bộ, tính hiệu quả của các PPDH phát triển năng lực nghề nghiệp chưa cao. Thời lượng thực hành nghề


nghiệp trong cấu trúc chương trình đào tạo có tăng, tuy nhiên chưa đủ để SV có cơ hội chuyển hóa kiến thức, kĩ năng thành năng lực thực hiện. Thực hành, thực tập nghề nghiệp là một lĩnh vực chưa có nhiều thay đổi về chất; thiếu gắn kết giữa đào tạo ở ĐH với thực tập ở trường phổ thông. Đánh giá vẫn là một lĩnh vực chưa thực sự được chú trọng đúng mức, nhất là đánh giá quá trình. Chính vì thế, SV tốt nghiệp ngành sư phạm địa lí chưa đáp ứng ở trình độ cao so với chuẩn đầu ra được thiết kế trong chương trình về năng lực GDĐL.

Trên cơ sở đó, những giải pháp mang tính định hướng gắn với phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào: Nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp phát triển năng lực GDĐL cho SV, trong đó chú trọng sử dụng và kết hợp các phương pháp đào tạo theo hướng phát huy vai trò chủ động, tích cực, độc lập, sáng tạo của SV. Tăng cường áp dụng và nâng cao hiệu quả các phương pháp phát triển năng lực GDĐL trong giảng dạy các học phần nghề nghiệp chuyên ngành; đẩy mạnh tích hợp kiến thức chuyên môn, phương pháp giảng dạy trong quá trình đào tạo; tăng cường học tập trải nghiệm và ứng dụng CNTT&TT; xác định vai trò quan trọng của kiểm tra đánh giá và đổi mới hình thức, phương pháp và công cụ đánh giá.


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Nghiên cứu cơ sở khoa học của việc phát triển năng lực GDĐL cho SV sư phạm địa lí, tác giả luận án có những kết luận như sau:

Giáo dục địa lí được quan niệm là sự kết hợp giữa địa lí và giáo dục. Lĩnh vực này có vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục nói chung và GDPT nói riêng nhằm trang bị cho thế hệ tương lai kiến thức, kĩ năng, thái độ và giá trị để đưa ra quyết định hợp lí cho một tương lai bền vững của hành tinh. Chính vì thế, phát triển năng lực GDĐL cho GV để thực hiện sứ mệnh này có ý nghĩa quyết định. Đây là nhiệm vụ của các cơ sở đào tạo GV địa lí. Trong quá trình này, đào tạo GV theo hướng phát triển năng lực nghề nghiệp là tiếp cận quan trọng nhằm đổi mới chương trình, nội dung và phương thức để phù hợp với các Chuẩn nghề nghiệp GV các cơ sở GDPT.

Phát triển năng lực GDĐL cho SV là quá trình biến đổi các yếu tố của cấu trúc năng lực GDĐL từ vùng phát triển hiện tại đến “vùng phát triển gần nhất”, đồng thời hình thành vùng phát triển kế tiếp, đáp ứng các chuẩn đầu ra. Xây dựng cơ sở lí luận cho quá trình này cần vận dụng các lí thuyết học tập như thuyết hành vi, kiến tạo, hoạt động, nhận thức; các quan điểm dạy học: phát triển năng lực, tương tác, tích hợp và trải nghiệm; đặc điểm tâm sinh lí, khả năng học tập của SV. Các tiếp cận này hướng dẫn việc thiết kế quy trình và lựa chọn phương thức phát triển phù hợp.

Đánh giá thực trạng phát triển năng lực GDĐL, chương trình đào tạo ở các cơ sở đào tạo SV sư phạm địa lí thuộc ĐNB và ĐBSCL đã cung cấp cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc xây dựng quy trình, biện pháp phát triển năng lực GDĐL. Các chương trình đã cập nhật và đổi mới trong mục tiêu, chuẩn đầu ra, nội dung, phương thức đào tạo và đánh giá kết quả theo định hướng phát triển năng lực. Trong đó, các biện pháp phát triển năng lực GDĐL được vận dụng đa dạng. Tuy nhiên, mức độ thường xuyên là không đồng đều, tập trung vào nhóm biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT&TT so với đổi mới đánh giá, tích hợp và trải nghiệm. Cần phải tiếp tục cải tiến chương trình và phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo SV sư phạm địa lí.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/05/2022