Phát Triển Năng Lực Giáo Dục Địa Lí Cho Sinh Viên

34


nghiệp. Tùy theo tính chất nghề nghiệp, tương ứng là loại năng lực cần hình thành mà thành phần kĩ năng được nhận diện có thể khác nhau [94].

Năng lực nghề là khả năng thực hiện thành công các hoạt động nghề nghiệp, cụ thể là thực hiện thành công các hoạt động chuyên môn của một nghề nào đó trên sự huy động, vận dụng tổng hợp hệ thống kiến thức chuyên môn, kĩ năng nghiệp vụ của nghề và các thuộc tính cá nhân khác có liên quan trực tiếp tới hoạt động nghề nghiệp phải thực hiện [37]. Cấu trúc năng lực nghề bao gồm 3 yếu tố: tri thức chuyên môn, kĩ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp (hình 1.4).

Tri thức chuyên môn

Kĩ năng hành nghề

Đạo đức nghề nghiệp

Hình 1.4. Cấu trúc năng lực nghề (nguồn: [33])

Đối với nghề dạy học, năng lực sư phạm là sự huy động, vận dụng các kiến thức, kinh nghiệm, giá trị, thái độ và kĩ năng sư phạm của người GV để hoàn thành có kết quả các hoạt động dạy học và giáo dục HS [78]. Theo Phạm Thị Hồng Vinh (2010), năng lực sư phạm là sự tổng hòa kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề sư phạm [113 tr.155]. Vận dụng quan niệm về năng lực nghề để phân tích, có thể cấu trúc năng lực sư phạm của GV gồm: kiến thức, kĩ năng sư phạm và đạo đức nghề nghiệp.

Kiến thức của GV là sự tích hợp của kiến thức chuyên ngành, kiến thức sư phạm trong kiến thức sư phạm chuyên ngành, theo Shulman, 1986 [150]. Trong đó, kiến thức chuyên ngành là kiến thức về các khái niệm; mối liên hệ giữa các khái niệm; phương pháp tìm kiếm và áp dụng kiến thức gắn với các lĩnh vực khoa học nhất định. Kiến thức sư phạm là những kiến thức về tâm lí học, giáo dục học, về khoa học nhận thức, về hoạt động và sự phát triển của bộ não, về quá trình học tập, về ứng xử sư phạm, về quy chế của nhà trường phổ thông và quy định của ngành. Kiến thức sư phạm chuyên môn có 5 thành tố cơ bản: Định hướng giảng dạy; Kiến thức về chương trình giảng dạy; Hiểu biết về những kiến thức sẵn có của HS và những khó khăn HS gặp phải khi học một kiến thức nhất định; Kiến thức về các PP&KT dạy học giúp HS hình thành kiến thức mới; Kiến thức về các phương pháp đo lường và đánh giá kết quả học tập.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 289 trang tài liệu này.

Kĩ năng sư phạm là khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có vào việc thực hiện có kết quả một hành động hay một hoạt động sư phạm [69]. Theo Nguyễn Như An

35


(1990) những kĩ năng sư phạm cần rèn luyện cho SV bao gồm: Kĩ năng cơ bản (Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nhận thức, kĩ năng dự kiến – thiết kế, kĩ năng tổ chức sư phạm), kĩ năng chuyên biệt (kĩ năng dạy học, kĩ năng giáo dục, kĩ năng nghiên cứu khoa học) [dẫn theo 113]. Kĩ năng sư phạm là một thành phần quan trọng trong cấu trúc năng lực sư phạm của GV.

Đạo đức nghề sư phạm là một hệ thống quy tắc, chuẩn mực, phản ánh tính đặc thù của hoạt động sư phạm nhằm đánh giá, điều chỉnh thái độ, hành vi của nhà giáo sao cho phù hợp với yêu cầu của nghề [58]. Đạo đức nghề sư phạm được thể chế hóa trong văn bản quy định về đạo đức nhà giáo của Bộ GD&ĐT tạo bao gồm phẩm chất chính trị, đạo đức; lối sống, tác phong và giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo [9]. Trong các trường sư phạm, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV là quá trình tác động có tổ chức, có hệ thống của nhà giáo dục đối với SV nhằm hình thành những phẩm chất phù hợp với giá trị, chuẩn mực đạo đức nhà giáo [58].

Để thiết lập quan niệm về năng lực GDĐL, luận án xem xét và vận dụng các tiếp cận về: i) Mối liên hệ bản chất giữa dạy học và giáo dục, xem dạy học là phương tiện cho giáo dục, thực hiện chức năng giáo dục thông qua dạy học. Như vậy, năng lực GV địa lí bao gồm trong đó năng lực giáo dục và năng lực dạy học; năng lực giáo dục thông qua giảng dạy môn Địa lí. ii) Quan niệm về GDĐL nhấn mạnh sự kết hợp, giao thoa (overlap) giữa địa lí và giáo dục, địa lí trở thành phương tiện cho giáo dục. iii) Chức năng của môn Địa lí trong trường học cung cấp hệ thống tri thức, kĩ năng kĩ xảo liên quan đến địa lí, đồng thời hình thành thế giới quan khoa học và nhân cách cho HS. iv) Kiến thức sư phạm địa lí là sự kết hợp giữa kiến thức sư phạm và kiến thức địa lí để phục vụ cho việc GDĐL, đây là loại hình kiến thức đặc trưng cho GV địa lí. NCS cho rằng: GDĐL trước hết là dạy học địa lí, với mục đích trang bị cho người học tri thức cơ bản về khoa học địa lí; hình thành và phát triển những kĩ năng và động cơ địa lí từ đó có năng lực địa lí. Thông qua dạy học, địa lí thực hiện chức năng giáo dục của mình, hay nói cách khác địa lí trở thành phương tiện cho giáo dục để phục vụ cho một số mục tiêu quan trọng (Gerber. R và cộng sự).

Năng lực sư phạm của người GV bao gồm năng lực dạy học và năng lực giáo dục. Trong đó, “Năng lực giáo dục qua giảng dạy môn học” thuộc nhóm năng lực giáo dục theo quan niệm của Nguyễn Thị Kim Dung và đồng nghiệp (2015). Các tiêu chí của năng lực này được xây dựng dựa trên việc hiểu về chức năng của dạy học -trang bị tri thức, hình thành kĩ năng, thái độ, phát triển năng lực và nhân cách đa dạng của HS; Vai trò, tác dụng của môn học trong việc giáo dục HS; Tiềm năng giáo dục HS của các nội dung, phương pháp và hình thức dạy học bộ môn [24]. Bên cạnh đó, trong Chiến lược phát triển giáo dục thế kỉ XXI của UNESSCO cũng nhấn mạnh: “GV được đào tạo để

36


trở thành những nhà giáo dục hơn là những chuyên gia truyền đạt kiến thức” [dẫn theo 84]. Để cụ thể hóa điều này, người GV xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp dạy học với giáo dục, thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, PPDH phù hợp với đặc thù môn học, đặc điểm HS và môi trường giáo dục; đảm bảo đáp ứng yêu cầu về phẩm chất và năng lực được quy định trong chương trình; phối hợp hoạt động học và hoạt động dạy theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức của HS [97]. Năng lực GDĐL được xây dựng dựa trên tiếp cận giáo dục thông qua dạy học bộ môn Địa lí ở nhà trường phổ thông.

Kiến thức nội dung sư phạm (PCK) là một bộ phận của Nền tảng kiến thức cho giảng dạy theo quan niệm của Shulman, 1987. [151]. Kiến thức nội dung sư phạm là khối kiến thức dành riêng cho việc dạy học. Nó thể hiện sự kết hợp giữa kiến thức nội dung của các khoa học cơ bản với phương pháp sư phạm. Kiến thức nội dung sư phạm là phạm trù gần nhất để phân biệt giữa kiến thức của chuyên gia trong một lĩnh vực học thuật nào đó với kiến thức của nhà sư phạm trong lĩnh vực đó [150].

Kiến thức nội dung sư phạm địa lí (PCK-G) là nền tảng kiến thức cần thiết cho GV địa lí để họ đạt được hiệu quả dạy học bộ môn và đáp ứng nhu cầu nhận thức và cảm xúc của người học [132]. Theo Martin, kiến thức nội dung sư phạm địa lí là sự kết hợp giữa kiến thức bộ môn Địa lí (khái niệm địa lí, niềm tin địa lí) và kiến thức sư phạm (khái niệm về giảng dạy và học tập, triết lí giáo dục) [138]. Để hiểu về cấu trúc Kiến thức nội dung sư phạm trong môn địa lí cần làm rõ ba vấn đề là: 1) tôi sẽ dạy gì (kiến thức): kiến thức địa lí, kĩ năng và động cơ học tập, 2) Tôi sẽ dạy như thế nào (kiến thức phương pháp): các kĩ năng dạy học cần thiết để giúp HS học địa lí và 3) tại sao tôi lại dạy nó theo cách này (niềm tin về môn học): thái độ giúp đỡ HS trở thành công dân toàn cầu có trách nhiệm và năng động (hình 1.5) [122].

Hình 1 5 Kiến thức nội dung sư phạm cho việc giảng dạy địa lí nguồn 1

Hình 1.5. Kiến thức nội dung sư phạm cho việc giảng dạy địa lí (nguồn: [116])

Kiến thức sư phạm địa lí của SV sư phạm (PGK-ST) là khối kiến thức mà SV ngành sư phạm địa lí cần được trang bị để trở thành GV địa lí sau khi kết thúc quá trình đào tạo. Khối kiến thức này là đặc trưng để phân biệt với SV sư phạm các ngành khác


hoặc SV hệ cử nhân địa lí. Kiến thức sư phạm địa lí và sự kết hợp giữa kiến thức bộ môn địa lí và kiến thức sư phạm.



Kiến thức chuyên ngành địa lí

Kiến thức địa lí Kĩ năng địa lí Động cơ địa lí

Kiến thức sư phạm Đlí Định hướng giảng dạy địa lí Chương trình môn địa lí

Sự hiểu biết và thái độ của HS

Chiến lược giảng dạy phù hợp Đánh giá trong dạy học địa lí

Kiến thức tâm lí học và lí luận dạy học

Sự phát triển của bộ não Khoa học nhận thức Học tập cộng tác

Quản lí lớp học ...


Hình 1.6. Kiến thức sư phạm địa lí của sinh viên (Nguồn: [143])

Xét về góc độ đào tạo, SV sư phạm địa lí cần thiết được trang bị một nền tảng kiến thức, kĩ năng bền vững, một động cơ học tập và giảng dạy địa lí đủ lớn để có thể thúc đẩy điều này ở HS. Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Thị Minh Đức đã chỉ ra rằng: Phải trang bị những kiến thức và kĩ năng cơ bản, tiên tiến cho SV trong đó coi trọng nguyên tắc lấy cơ bản là gốc và phải nhìn nhận trong một hệ thống thống nhất. Cần có sự phối hợp hơn nữa giữa các bộ môn trong việc hình thành và rèn luyện các kĩ năng địa lí cơ bản cho SV, vì lẽ không có kĩ năng nào không dựa trên nền tảng của kiến thức cơ bản. Phải thường xuyên củng cố tư duy địa lí cho họ, tạo ra thói quen nghề nghiệp: nhìn các vấn đề từ góc độ địa lí. Phải truyền “lửa nghề” cho SV [98]. Năm yếu tố trong Kiến thức sư phạm địa lí của SV (PGK-ST ) bao gồm: 1) Định hướng giảng dạy địa lí, đó là những quan niệm bao quát của GV về dạy học địa lí; 2) Kiến thức về chương trình bộ môn Địa lí là khối kiến thức về đặc điểm môn học, quan điểm thiết kế, mục tiêu chương trình, nội dung và yêu cầu cần đạt, định hướng về phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục; 3) Kiến thức về sự hiểu biết địa lí của HS là sự am hiểu của người GV về kiến thức và quá trình nắm kiến thức của HS để từ đó có những tác động phù hợp trong chiến lược giảng dạy; 4) Kiến thức về các chiến lược giảng dạy phù hợp, là sự hiểu biết về khả năng sử dụng và kết hợp các phương pháp để giúp HS đạt được mục tiêu trong học tập địa lí; 5) Kiến thức về đánh giá trong dạy học địa lí là kiến thức về các lĩnh vực cần đánh giá trong quá trình học tập địa lí của HS và kiến thức về các phương pháp đánh giá những lĩnh vực đó.

Từ những căn cứ trên, năng lực GDĐL được định nghĩa là khả năng mà GV xác định và thực hiện các chiến lược, quy trình và biện pháp cụ thể để hình thành và phát triển năng lực địa lí cho HS trên cơ sở các yêu cầu của chương trình giảng dạy, đặc điểm nhận thức, hành vi của người học và tình huống học tập đa dạng [153]. Những dấu hiệu bản chất của năng lực GDĐL như sau:


- Năng lực GDĐL là sự kết hợp giữa năng lực giáo dục và năng lực địa lí tạo thành cấu trúc năng lực của người GV địa lí. Trong đó, năng lực giáo dục được quan niệm theo nghĩa hẹp bao gồm năng lực dạy học và năng lực giáo dục thông qua dạy học địa lí. Như vậy năng lực dạy học địa lí là một thành phần cơ bản của năng lực GDĐL. Thông qua dạy học bộ môn, người GV thực hiện chức năng giáo dục của địa lí. Người GV địa lí thể hiện sự chuyên nghiệp về kiến thức, kĩ năng, động cơ địa lí trong năng lực địa lí của mình. Muốn có năng lực GDĐL trước hết người GV cần có năng lực địa lí.

Hình 1 7 Năng lực GDĐL là sự kết hợp giữa năng lực giáo dục và năng 2

Hình 1.7. Năng lực GDĐL là sự kết hợp giữa năng lực giáo dục và năng lực địa lí

- Năng lực GDĐL bộc lộ ra bên ngoài thông qua khả năng người GV địa lí sử dụng các chiến lược dạy học và giáo dục phù hợp với đặc thù bộ môn và đối tượng người học. Một GV địa lí có năng lực biết cách hỗ trợ HS của họ hình thành và phát triển những năng lực địa lí cốt lõi thông qua sự kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp, kĩ thuật, phương tiện, hình thức tổ chức với nội dung giáo dục; trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về người học trong một bối cảnh giáo dục cụ thể, cá biệt. Kết quả của quá trình này là sự chuyển hóa năng lực địa lí từ người dạy sang người học và được người học tiếp tục phát triển.

- Từ quan niệm về năng lực GDĐL có thể hiểu: người GV địa cũng là những nhà GDĐL. Họ cần có một vốn tri thức sâu sắc về khoa học địa lí và các khoa học liên quan. Đồng thời, GV địa lí phải có kiến thức về KHGD, khoa học sư phạm và sử dụng chúng như những tri thức công cụ để thực hiện chức năng giáo dục của địa lí. Không nhất thiết GV địa lí phải là nhà địa lí nhưng họ nên là những nhà giáo dục.

1.2.2.2. Phát triển năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên

Để thiết lập cơ sở cho việc phát triển các năng lực cần có những quan niệm rõ ràng về phát triển năng lực GDĐL và những định hướng cho việc hình thành và phát triển năng lực này. Luận án vận dụng lí thuyết “vùng phát triển” để hiểu về quá trình hình thành và phát triển năng lực GDĐL của SV. Theo Vygotsky, tâm lí của người học phát triển từ vùng phát triển hiện tại đến vùng phát triển gần nhất. Vùng phát triển hiện tại là vùng mà ở đó người học đã tự thực hiện được nhiệm vụ, tự giải quyết vấn đề mà không cần tới sự hỗ trợ của GV hay người khác; Vùng phát triển gần nhất là vùng mà khả năng phát triển gần đạt tới; ở mức độ này người học có khả năng thực hiện được nhiệm vụ khi có sự giúp đỡ của GV hoặc người khác. Dạy học là quá trình phát triển ở người học, dẫn dắt người học đến vùng phát triển gần nhất, đồng thời hình thành vùng


phát triển gần kế tiếp và cứ thế người học sẽ phát triển liên tục. Trong đào tạo GV, vùng phát triển gần được quan niệm là khoảng cách giữa những gì SV có thể làm mà không cần sự hỗ trợ và trình độ gần nhất mà họ có thể đạt được thông qua chiến lược hỗ trợ trung gian của những người có trình độ cao hơn (GiV, GV, người hướng dẫn) [154].

Hình 1 8 Vùng phát triển gần theo quan niệm của L S Vygotsky Nguồn biên tập 3

Hình 1.8. Vùng phát triển gần theo quan niệm của L.S Vygotsky (Nguồn: biên tập lại từ: https://www.literacyworldwide.org)

Về phía người học (SV – yếu tố chủ quan): Phát triển năng lực GDĐL của SV là quá trình biến đổi theo chiều hướng tăng tiến các yếu tố của cấu trúc năng lực GDĐL (kiến thức, kĩ năng và thái độ) từ vùng phát triển hiện tại đến vùng phát triển gần nhất, đồng thời hình thành vùng phát triển kế tiếp, đáp ứng các chuẩn đầu ra đối với SV tốt nghiệp ngành sư phạm Địa lí.

Về phía đào tạo (chương trình, nội dung, phương pháp, người dạy – Yếu tố khách quan) Phát triển năng lực GDĐL lí cho SV là quá trình tác động vào vùng phát triển hiện tại của họ bằng tổng hợp các giải pháp sư phạm để thúc đẩy SV đạt được vùng phát triển gần nhất, và chuẩn bị điều kiện để họ tiến đến vùng phát triển tiếp theo nhằm thúc đẩy SV đạt được các chuẩn đầu ra quy định trong chương trình đào tạo và có năng lực phát triển nghề nghiệp suốt đời.

Quan niệm trên chỉ ra rằng:

- Phát triển năng lực GDĐL nói chung và các năng lực thành tố nói riêng, trước hết SV cần được trang bị kiến thức, kĩ năng, là thái độ, niềm tin đối với năng lực họ đang được rèn luyện. Bởi vì, người học được công nhận là có năng lực khi họ vận dụng thành công kiến thức, kĩ năng, thái độ được trang bị để giải quyết tình huống trong bối cảnh thực tiễn.

40


- Phát triển năng lực GDĐL là tác động vào vùng phát triển gần của SV, tức là tập trung vào những kiến thức, kĩ năng SV bắt đầu làm được với sự hỗ trợ của GiV để hướng dẫn họ tới vùng phát triển gần nhất và chuẩn bị cho vùng phát triển kế tiếp.

- SV thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức, thái độ, động cơ, hoạt động thực tiễn là mục tiêu hướng đến của việc phát triển năng lực GDĐL.

Trên cơ sở tham khảo kết quả tổng hợp các quan niệm về phát triển năng lực trong đào tạo GV của Nguyễn Văn Hiền (2018) [49], NCS đã vận dụng để phân tích một số định hướng cho quá trình phát triển năng lực GDĐL cho SV ngành sư phạm địa lí:

Thứ nhất, cần xác định chuẩn năng lực và đường phát triển cho mỗi năng lực cụ thể. Chuẩn năng lực GDĐL có khả năng định hướng quá trình phát triển năng lực cho SV thông qua các bộ tiêu chí, chỉ báo, chất lượng hành vi gắn với từng thành tố năng lực. Bên cạnh đó, việc đánh giá và ghi nhận thành tích của SV thực hiện dựa trên chuẩn năng lực GDĐL được cụ thể hóa trên đường phát triển năng lực của từng em. Trên cơ sở đó, GiV có những tác động, hỗ trợ kịp thời cho quá trình hình thành và phát triển năng lực nghề nghiệp của SV. Đường phát triển năng lực GDĐL có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá mức độ đạt được về năng lực của SV so với kì vọng của GiV hoặc so với chuẩn đầu ra, trong mỗi học phần, ở mỗi giai đoạn nhất định; Giúp SV thay đổi chiến lược học tập để có thể đạt hiệu quả cao hơn, từ đó SV có thêm động lực trong học tập và rèn luyện các năng lực GDĐL. Dựa trên chuẩn và đường phát triển năng lực, GiV cung cấp cho SV những thông tin phản hồi kịp thời về mức độ đạt được các năng lực, từng bước đáp ứng nhu cầu của bản thân họ và nhu cầu nghề nghiệp.

Thứ hai, nội dung giảng dạy phải dựa trên mục tiêu đã xác định (chuẩn năng lực GDĐL). Từ mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình được phân phối vào mục tiêu và chuẩn đầu ra của từng học phần cụ thể. Tiếp đó, nội dung (kiến thức, kĩ năng, thái độ) của từng học phần là sự cụ thể hóa mục tiêu và chuẩn đầu ra của học phần và một phần chuẩn năng lực GDĐL của chương trình đào tạo. Mối liên kết này sẽ đảm bảo việc giảng dạy các nội dung cụ thể góp phần phát triển từng chỉ báo năng lực để kết thúc quá trình đào tạo SV có đủ năng lực GDĐL. Chính vì thế, SV phải học theo chương trình cho đến khi chứng tỏ họ làm chủ được năng lực đã xác định.

Thứ ba, xác định vùng phát triển năng lực hiện tại và phát triển năng lực gần nhất của cá nhân SV trên đường phát triển năng lực GDĐL để lập kế hoạch can thiệp sư phạm phù hợp, tập trung vào những gì SV cần phải học. Quá trình này được chia làm bốn khâu gồm: i) Tự lực (Chuẩn bị tự học, tái hiện những kinh nghiệm được tích lũy trước đó; ii) Sự hỗ trợ của GiV hoặc GV (Phân tích thực hành giảng dạy, làm mẫu, quan sát thực tế giảng dạy, đóng vai…); iii) Nội tại hóa/ chủ quan hóa (Áp dụng lặp đi lặp lại các kiến thức, kĩ năng sư phạm địa lí đã học qua dạy học vi mô, khái quát lí thuyết); iv) Quay trở


lại (SV thu thập thông tin và chỉnh sửa để thay đổi theo yêu cầu, chuẩn bị tiếp cận một lĩnh vực kiến thức, kĩ năng ở trình độ cao hơn).

Hệ thống năng lực giáo dục trong các nghiên cứu lí luận thiên về xu hướng toàn diện và lí tưởng hóa vì thế số lượng các năng lực được mô tả thường rất lớn [110]. Điều này mâu thuẫn với thực tế đào tạo, liên quan đến thời lượng chương trình và năng lực của SV. Một vấn đề đặt ra là cần lựa chọn những năng lực cốt lõi để hình thành, phát triển cho SV và tập trung nguồn lực cho những lựa chọn đó. Đó là những năng lực GDĐL nền tảng mà việc trang bị cho SV có vai trò quyết định đối với nghề nghiệp của các em sau này. Trên cơ sở lí thuyết, thực tiễn giảng dạy và tham vấn chuyên gia GDĐL, tác giả luận án xác định 4 chỉ báo năng lực cốt lõi trong quá trình đào tạo SV sư phạm địa lí (xét trên góc độ giảng dạy các học phần PPDH địa lí) gồm: Vận dụng các PP&KT dạy học địa lí; Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học địa lí ở trường phổ thông; Đánh giá trong GDĐL; Thiết kế KHBD trong GDĐL.

1.3. Cơ sở khoa học của việc phát triển năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên

1.3.1. Cơ sở tâm lí học dạy học

Có nhiều mô hình lí thuyết học tập khác nhau, NCS vận dụng bốn nhóm lí thuyết học tập chính để thiết kế quy trình, biện pháp phát triển năng lực GDĐL cho SV sư phạm Địa lí.

1.3.1.1. Vận dụng thuyết hành vi

Thuyết hành vi (Behavorism) xem việc học tập và giáo dục là sự thay đổi hành vi của một cá nhân trong suốt một quá trình, bao gồm khám phá, sự thử và lỗi sai cho đến khi có chuyển biến tích cực xảy ra (Watson, 1913). Skinner nhấn mạnh bốn điều quan trọng về học tập: i) mỗi bước trong quá trình học tập cần ngắn gọn và là hành vi tiếp tục của hành vi đã học trước đó; ii) để hiệu quả, người học cần được khen thưởng và củng cố một cách kiên định cho đến khi hành vi được định hình; iii) nên phản hồi ngay lập tức cho người học và người học nên được đưa ra những “phân biệt kích thích” cho con đường có khả năng thành công nhất (Skinner, 1984) [119].

Trong phát triển năng lực GDĐL lí thuyết này được vận dụng trong việc xây dựng cấu trúc năng lực và tổ chức quá trình luyện tập các kĩ năng dạy học. Theo đó, Năng lực GDĐL được trình bày trong các hợp phần, mỗi hợp phần gồm các chỉ báo năng lực và được mô tả thông qua hệ thống chỉ số chất lượng hành vi có thể quan sát và đo được. Kĩ năng dạy học được chia thành các đơn vị kĩ năng nhỏ và tổ chức cho SV luyện tập theo một trình tự logic và thường xuyên kiểm tra kết quả đầu ra để điều chỉnh quá trình rèn luyện. Các PPDH được sử dụng phổ biến trong quá trình này là dạy học vi mô và phương pháp huấn luyện. Đánh giá xác thực là loại hình được sử dụng để đánh giá năng lực thực hành của SV trong các nhiệm vụ học tập và rèn luyện.

Xem tất cả 289 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí