và ĐPTNL. Khung năng lực này có ý nghĩa tham khảo để xây dựng các chuẩn đầu ra, mục tiêu của các chương trình đào tạo GV địa lí.
- Xác định được các nguyên tắc và yêu cầu cho việc phát triển năng lực GDĐL cho SV. Trên cơ sở đó, xây dựng được quy trình với các giai đoạn và các bước chi tiết và đề xuất các biện pháp cụ thể phát triển năng lực GDĐL. Đây là kết quả quan trọng của nghiên cứu và có giá trị đối với GiV nhất là GiV PPDH trong quá trình thiết kế KHBD phát triển năng lực cho SV.
Về mặt thực tiễn:
- Phân tích được thực trạng đào tạo SV ngành sư phạm Địa lí bậc đại học ở các cơ sở thuộc khu vực ĐNB&ĐBSCL làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất quy trình và biện pháp phát triển năng lực GDĐL trong luận án. Ngoài ra, kết quả này có ý nghĩa tham khảo đối với các trường trong việc điều chỉnh chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
- Thiết kế được một số kế hoạch tổ chức phát triển năng lực GDĐL cho SV sư phạm Địa lí trong các học phần phương pháp giảng dạy. Các kế hoạch này được cụ thể hóa trong hệ thống các KHBD bao gồm các KHBD lí thuyết, KHBD thực hành và KHBD tích hợp.
- Kiểm chứng được tính khoa học, thực tiễn và khả thi của quy trình và các biện pháp phát triển năng lực GDĐL cho SV thông qua TNSP; thể hiện qua sự tiến bộ của SV trên ĐPTNL trong các chỉ báo: Vận dụng PP&KT dạy học địa lí, đánh giá trong GDĐL, thiết kế KHBD trong GDĐL và ứng dụng CNTT&TT trong dạy học địa lí ở trường phổ thông.
8. Cấu trúc của luận án
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên ngành sư phạm Địa lí
Chương 2. Quy trình và biện pháp phát triển năng lực giáo dục địa lí cho sinh viên ngành sư phạm Địa lí
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển năng lực giáo dục địa lý cho sinh viên ngành sư phạm Địa lý - 2
- Tổng Quan Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án
- Phát triển năng lực giáo dục địa lý cho sinh viên ngành sư phạm Địa lý - 4
- Sự Tương Thích Giữa Chuẩn Nghề Nghiệp Gv Phổ Thông Với Chuẩn Đầu Ra Cử Nhân Ngành Sư Phạm (Nguồn: [37])
- Phát Triển Năng Lực Giáo Dục Địa Lí Cho Sinh Viên
- Đặc Điểm Tâm Sinh Lí, Khả Năng Học Tập Của Sinh Viên Sư Phạm
Xem toàn bộ 289 trang tài liệu này.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIÁO DỤC ĐỊA LÍ CHO SINH VIÊN NGÀNH SƯ PHẠM ĐỊA LÍ
1.1. Đổi mới đào tạo giáo viên theo hướng phát triển năng lực nghề nghiệp
1.1.1. Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã mở ra một thời đại mới trong tiến trình phát triển của nhân loại và tác động mạnh mẽ, làm thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục. Thời đại số đặt ra những yêu cầu rất cao đối với chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì thế, để đào tạo được những công dân có đầy đủ những năng lực đó, vị thế GV phải thay đổi. GV vẫn là trung tâm, tuy nhiên vai trò của họ trở nên phức tạp hơn. Yêu cầu đối với năng lực dạy học của GV cũng vì thế đòi hỏi cao hơn [3]. Thực tế trên đặt ra cho các trường sư phạm những nhiệm vụ hết sức cấp bách đối với việc cải tiến và hiện đại hóa chương trình đào tạo và bồi dưỡng GV.
Nghị quyết 29 (2013) của Ban Chấp Hành TW Đảng về Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT đã chỉ rõ nhiệm vụ của giáo dục nói chung và GDPT nói riêng là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD&ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”, cụ thể: i) Chương trình hướng đến việc phát triển năng lực và phẩm chất người học; ii) Nội dung giáo dục được xây dựng và chuẩn hóa theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; iii) PPDH hướng đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; Ứng dụng mạnh mẽ CNTT&TT trong dạy học; iv) Đánh giá kết quả giáo dục cần đổi mới căn bản về cả hình thức và phương pháp [6].
Nghị quyết 88 (2014) về Đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT do Quốc Hội ban hành đã cụ thể hóa những định hướng đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT vào chương trình và SGK phổ thông [89]. Tiếp đó, Chính Phủ phê duyệt đề án đổi mới chương trình, SGK GDPT ban hành trong Quyết định số 44 (2015) [22]. Toàn bộ những định hướng trên được hiện thực hóa qua Thông tư 32 (2018) của Bộ GD&ĐT về việc ban hành Chương trình GDPT bao gồm chương trình tổng thể, chương trình các môn học và hoạt động giáo dục [15]. Các đặc điểm nổi bật là: Chương trình GDPT 2018 là chương trình phát triển phẩm chất và năng lực người học. Năm phẩm chất chủ yếu gồm: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Phẩm chất của người học được hình thành, phát triển thông qua nội dung kiến thức của một số môn học và phương pháp giáo dục [18]. Mười nhóm năng lực cốt lõi gồm: Những năng lực chung (năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo)
được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục. Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định [16].
Trước đó, Nghị quyết số 14 (2005) của Chính Phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục ĐH Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 nhấn mạnh: Phát triển các chương trình giáo dục ĐH theo định hướng nghiên cứu và định hướng nghề nghiệp - ứng dụng; cơ cấu lại khung chương trình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa các môn giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp; gắn kết chặt chẽ với thực tiễn nghiên cứu khoa học, công nghệ và nghề nghiệp, phục vụ yêu cầu phát triển KT – XH của từng ngành, từng lĩnh vực. Phương pháp đào tạo đổi mới theo 3 tiêu chí: trang bị cách học, phát huy tính chủ động của người học, sử dụng CNTT&TT trong hoạt động dạy và học [21]. Nghị quyết này định hướng cho việc đối mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo GV ở các trường đại học sư phạm.
Như vậy, đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT nói chung, giáo dục ĐH nói riêng và thực thi chương trình GDPT 2018 đã đặt ra cho các trường sư phạm những yêu cầu cấp thiết đối với việc xây dựng, cải tiến, cập nhật chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo SV. Đồng thời, các trường cần phải xây dựng các chương trình bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực đội ngũ GV để họ có khả năng thích ứng với yêu cầu đổi mới GD&ĐT trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Chương trình đào tạo cần được cải tiến theo những định hướng cơ bản sau [4]:
Chương trình cần được rà soát, cải tiến, cập nhật thường xuyên như là một yếu tố hữu cơ của quá trình phát triển chương trình để đáp ứng với những thay đổi của sự phát triển KT – XH, GD&ĐT quốc gia và quốc tế; Cần được thiết kế hướng vào sự thay đổi vai trò của người GV trong xã hội hiện nay. GV vừa là Nhà giáo dục, Nhà nghiên cứu, Người học suốt đời và là Nhà văn hóa - xã hội; Đáp ứng mục tiêu phát triển năng lực nghề là tiếp cận quan trọng để xây dựng chương trình đào tạo GV. Các trường sư phạm cần đào tạo được những SV có đủ năng lực thực hiện các hoạt động cơ bản trong thực tiễn nghề nghiệp sau này; Tiệm cận các tiêu chí của chuẩn nghề nghiệp GV trung học nhằm tạo nền tảng, chuẩn bị cho SV đạt được các tiêu chí về phẩm chất, năng lực được quy định trong chuẩn; Cần được cải tiến, cập nhật để đáp ứng với sự thay đổi của chương trình GDPT giai đoạn hiện này (chương trình GDPT 2018) và chuẩn bị cho những sự thay đổi về lâu dài.
1.1.2. Đổi mới đào tạo giáo viên theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp
Đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực nghề có những đặc trưng và định hướng cụ thể: Đào tạo để người học thành thạo với công việc của một lĩnh vực nghề nghiệp từ đó có cơ hội tiếp cận việc làm, tức là chú trọng kết quả đầu ra. Chuẩn nghề nghiệp là thước
21
đo sự thành thạo của công việc và là mục tiêu của đào tạo. Đào tạo phải gắn với thực tế thì hiệu suất đào tạo mới tối ưu [94]. Chuyển năng lực nghề - năng lực sư phạm vào lĩnh vực đào tạo GV thì tiếp cận năng lực nghề là hướng đến đào tạo và phát triển các năng lực nghề dạy học cho SV. Cách tiếp cận này sẽ tác động đến việc thiết kế chương trình, xác định mục tiêu, nội dung và tổ chức đào tạo.
Mục tiêu đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực nghề chính là chuẩn năng lực đầu ra. Chuẩn đầu ra là bản mô tả chi tiết các phẩm chất, giá trị và năng lực cần đạt được sau quá trình đào tạo. Mặt khác, chuẩn đầu ra phải thể hiện được các yêu cầu về năng lực cần có ở SV qua từng giai đoạn và cả quá trình đào tạo. Việc xác định mục tiêu được tiến hành trên cơ sở phân tích đặc trưng, yêu cầu lao động nghề của người GV và khung chuẩn năng lực đầu ra của SV sư phạm.
Chương trình đào tạo GV theo định hướng hình thành năng lực nghề cần được xây dựng dựa trên thực tế nghề nghiệp và các yếu tố liên quan đến nghề dạy học. Các yêu cầu về năng lực của SV trong chương trình đào tạo cần phù hợp với hệ thống năng lực được quy định trong chuẩn đầu ra. Chương trình đào tạo phải hướng đến các hoạt động học tập và nghiên cứu của SV, lấy việc tự học, tự rèn luyện làm cơ sở để thiết kế. Chương trình đào tạo là chương trình mở, gắn với môi trường khoa học, giáo dục, kinh tế,văn hóa, xã hội; tạo điều kiện thường xuyên cập nhật tri thức, kĩ năng mới về NVSP và khuyến khích sự sáng tạo của SV.
Nội dung đào tạo phải đảm bảo hệ thống kiến thức, kĩ năng được lựa chọn góp phần hình thành và phát triển năng lực nghề nhất định. Khối lượng kiến thức chung, kiến thức cơ sở ngành, kiến thức chuyên ngành, kiến thức nghề nghiệp chuyên ngành đảm bảo tỉ lệ hài hòa; cân đối giữa lí thuyết và thực hành; giữa hoạt động đào tạo tại cơ sở đào tạo sư phạm và tại cơ sở GDPT. Nội dung kiến thức và kĩ năng trong chương trình phải được thiết kế theo nguyên lí tích hợp và phân hóa. Tích hợp trong nội dung khoa học, trong hoạt động tư duy, trí tuệ; tích hợp giữa nội dung khoa học chuyên ngành với khoa học nghiệp vụ, giữa kiến thức và kĩ năng trong việc giải quyết tình huống cụ thể. Sự phân hóa trong nội dung đào tạo đảm bảo phù hợp với quy luật phát triển của các lĩnh vực khoa học chuyên ngành; quy luật phát triển tâm lí trí tuệ của cá nhân SV, theo hướng cá thể hóa và theo hướng thúc đẩy tự học của SV.
Tổ chức đào tạo theo định hướng hình thành năng lực nghề cho SV Sư phạm chú ý đến tích hợp các hoạt động đào tạo hướng vào phát triển các năng lực nghề nghiệp cốt lõi. Tích hợp giữa các lĩnh vực tri thức, giữa các học phần, giữa lí thuyết và thực hành nghề nghiệp. Một mặt giúp SV có kĩ năng nghiệp vụ, mặt khác, giúp họ có kiến thức khoa học chuyên ngành và các kiến thức văn hóa chung sâu sắc. Từ tri thức các học phần chuyển thành năng lực chỉ thực hiện được bằng phương thức đào tạo dựa trên logic
22
các hành động nghề. Trọng tâm của chương trình đào tạo phải được tích hợp tạo thành các hành động nghề nghiệp, nghĩa là đào tạo GV theo năng lực đồng nghĩa với đào tạo dựa trên các hành động nghề nghiệp cụ thể liên quan đến dạy học và giáo dục, dựa trên nghiên cứu tác động, cả khi dạy lí thuyết và dạy thực hành. Tổ chức SV học trải nghiệm thực hành các hoạt động nghề nghiệp trong thực tiễn phổ thông. Đổi mới kiểm tra – đánh giá theo định hướng phát triển năng lực [78].
Có nhiều tác giả đưa ra khung năng lực nghề nghiệp dành cho SV sư phạm từ các cách tiếp cận khác nhau. Dưới đây trình bày khung giá trị và năng lực nghề trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Dung (2018) về khung năng lực đánh giá SV tốt nghiệp đại học sư phạm. NCS lựa chọn khung năng lực này vì đã khái quát được cấu trúc năng lực của SV sư phạm trong đó có SV sư phạm Địa lí. Bên cạnh đó, mô tả cấu trúc năng lực đã tiếp cận với chuẩn nghề nghiệp GV phổ thông do Bộ GD&ĐT ban hành. Hơn thế, khung năng lực này đã trình bày và nhấn mạnh về “Năng lực giáo dục qua giảng dạy môn học”. Điều này phù hợp với cách tiếp cận để thiết lập năng lực giáo dục thông qua giảng dạy bộ môn Địa lí. Theo đó, năng lực của SV sư phạm gồm ba nhóm giá trị nghề nghiệp và ba nhóm năng lực nghề nghiệp, cụ thể [25]:
Các giá trị nghề nghiệp bao gồm: i) Những giá trị hướng vào HS: Yêu thương và khoan dung với HS; Tin tưởng tất cả trẻ em đều có thể học được và có sự tiến bộ; Cam kết nuôi dưỡng, phát triển tiềm năng của từng HS; Coi trọng sự đa dạng; ii) Những giá trị mang bản sắc của người GV: Ham học hỏi, kiên trì, kiên nhẫn sáng tạo, gương mẫu, sống lành mạnh, chuẩn mực, cởi mở, thân thiện, thẳng thắn, trung thực; iii) Những giá trị phục vụ nghề nghiệp: yêu nghề, tự hào và say mê với nghề giáo, trách nhiệm nghề nghiệp, cam kết chất lượng.
Các năng lực nghề nghiệp bao gồm: i) Các năng lực nền tảng: Giao tiếp và hợp tác, công nghệ thông tin, ngoại ngữ, nghiên cứu khoa học, năng lực thích ứng với sự thay đổi và năng lực hoạt động xã hội; ii) Các năng lực chuyên ngành: Hệ thống hóa và cập nhật tri thức mới của khoa học chuyên ngành, tư duy hệ thống, liên ngành; ứng dụng khoa học chuyên ngành vào nghiên cứu và giải thích thế giới hiện thực; iii) Các năng lực nghiệp vụ sư phạm: Chẩn đoán và định hướng sự phát triển HS, năng lực dạy học, giáo dục và năng lực phát triển nghề nghiệp:
+ Năng lực chẩn đoán và định hướng sự phát triển HS: Năng lực phân tích, nhận diện đặc điểm cá nhân của người học; năng lực tạo động lực, nhu cầu học tập cho người học; năng lực hỗ trợ người học thiết kế chiến lược và kế hoạch phát triển cá nhân; năng lực hỗ trợ người học xây dựng cách học; năng lực hỗ trợ người học tự đánh giá khả năng, sở trường của bản thân và biết rút kinh nghiệm, điều chỉnh.
23
+ Năng lực giáo dục: Năng lực giáo dục qua giảng dạy môn học; năng lực xây dựng kế hoạch giáo dục; năng lực vận dụng phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục; năng lực tổ chức các hoạt động trải nghiệm; năng lực xử lí các tình huống sư phạm; năng lực giáo dục HS có nhu cầu đặc biệt; năng lực tư vấn và tham vấn; năng lực xây dựng môi trường lớp học an toàn, tích cực và thân thiện; năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường; năng lực đánh giá sự tiến bộ của HS; năng lực xây dựng, quản lí và sử dụng hồ sơ giáo dục.
+ Năng lực dạy học: Năng lực phát triển chương trình và tài liệu giáo khoa; năng lực vận dụng phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học bộ môn; năng lực dạy học phân hóa; năng lực dạy học tích hợp; năng lực lập kế hoạch dạy học, KHBD; năng lực tổ chức hoạt động học tập của HS trên lớp (Năng lực thực hiện KHBD); năng lực tổ chức và quản lí lớp học trên giờ học; năng lực hỗ trợ HS có nhu cầu đặc biệt trong dạy học; năng lực đánh giá sự tiến bộ và kết quả học tập của HS; năng lực xây dựng, quản lí và sử dụng khai thác hồ sơ dạy học.
+ Năng lực phát triển nghề nghiệp: Năng lực tự học và rèn luyện tay nghề; năng lực tự đánh giá sự phát triển nghề nghiệp cá nhân; năng lực xây dựng hồ sơ phát triển nghề nghiệp; năng lực tham gia cộng tác vào phát tiển cộng đồng nghề; năng lực thu hút sự tham gia của đồng nghiệp với vai trò là thành viên.
Năng lực sư phạm của người GV được hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn và chịu tác động của nhiều yếu tố. Các nhà tâm lí – giáo dục học thường chia quá trình này thành ba giai đoạn: Tiền sư phạm / hướng nghiệp, Học tập ở trường sư phạm và Giảng dạy ở trường phổ thông/ thực hiện hoạt động nghề nghiệp [42], [97]. Đối với các yếu tố ảnh hưởng, Fran Martin trong nghiên cứu về Nền tảng kiến thức cho giảng dạy hiệu quả: Sự phát triển của những GV địa lí tiểu học mới vào nghề đã phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến Kiến thức sư phạm chuyên ngành của GV địa lí tiểu học bao gồm: Trải nghiệm ở trường học với tư cách là HS, SV, GV; kinh nghiệm sống và quá trình đào tạo (hình 1.1) [138].
Hình 1.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức nội dung sư phạm của SV sư phạm (Nguồn: Fran Martin, 2008 [131])
24
Từ những nghiên cứu trên có thể khái quát về các giai đoạn cũng như vai trò của chúng trong quá trình phát triển năng lực sư phạm của GV như sau:
Giai đoạn tiền sư phạm là thời kì mà SV sư phạm học tập ở trường phổ thông. Những kiến thức, kĩ năng được trang bị ở trường phổ thông tạo nền tảng để SV tiếp thu kiến thức chuyên ngành ở bậc ĐH. Bên cạnh đó, là HS, người học trải nghiệm cách thức và con đường để lĩnh hội tri thức và hình thành kĩ năng bộ môn. Khi họ trở thành GV yếu tố này hết sức quan trọng vì chính họ phải đặt mình vào vai trò là người học để hiểu về kiến thức sẵn có và những khó khăn HS gặp phải. Ở một phương diện khác, những hình mẫu, phong cách giảng dạy của các GV họ được học sẽ định hình một phần phong cách giảng dạy khi họ trở thành GV.
Giai đoạn SV học tập ở trường sư phạm. Đây là giai đoạn chủ yếu và rất quan trọng trong quá trình định hình và phát triển năng lực sư phạm cho SV. Thời kì đầu, chương trình đào tạo cung cấp cho SV kiến thức cơ bản về chuyên ngành, kiến thức lí luận và PPDH bộ môn. Đồng thời, họ được rèn luyện những kĩ năng sư phạm cần thiết thông qua thực hành trong môi trường giả lập hoặc trải nghiệm. Động cơ, niềm tin nghề nghiệp được bồi dưỡng thông qua chính nội dung đào tạo, các hoạt động rèn luyện NVSP. Thời kì tiếp theo, những kiến thức, kĩ năng được kết hợp, vận dụng trong bối cảnh thực tập nghề nghiệp tại trường phổ thông. Kết thúc thời kì này SV có năng lực để giảng dạy khi họ tốt nghiệp.
Giai đoạn giảng dạy ở trường phổ thông, GV tham gia chính thức các hoạt động giáo dục ở trường phổ thông. Đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng để người GV trải nghiệm, phát triển các nền tảng được trang bị trước đó để từng bước hoàn thiện năng lực sư phạm cho bản thân.
Tóm lại, các giai đoạn hình thành và phát triển năng lực sư phạm của GV cho thấy: Cần phải huy động được kiến thức và kĩ năng mà SV đã có trong giai đoạn tiền sư phạm vào quá trình đào tạo để nâng cao hiệu suất và rút ngắn thời gian. Giai đoạn ở trường sư phạm cần đề cao vai trò tự học, tự nghiên cứu của SV để đào tạo họ trở thành những người học suốt đời. Bởi vì, quá trình học tập và rèn luyện ở trường sư phạm chỉ đem đến cho người GV những kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp cơ bản, muốn phát triển và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thích ứng với sự thay đổi của thời đại, của đất nước và của giáo dục thì họ phải tự học và tự đào tạo [37].
1.1.3. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên và chuẩn đầu ra ngành cử nhân sư phạm
1.1.3.1. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông
“Chuẩn nghề nghiệp GV cơ sở GDPT là hệ thống phẩm chất, năng lực mà GV cần đạt được để thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục HS”. Bộ tiêu chuẩn này gồm 5
25
tiêu chuẩn và 15 tiêu chí được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành trong thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT (bảng 1.1) [14].
Chuẩn nghề nghiệp GV được ban hành nhằm nhiều mục đích khác nhau. Đối với các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng GV, chuẩn này làm căn cứ để “xây dựng, phát triển chương trình và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng phát triển phẩm chất, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của GV cơ sở giáo dục phổ thông” [14]. Như vậy, việc đào tạo SV sư phạm cần hướng đến việc sau khi tốt nghiệp họ có khả năng đáp ứng những yêu cầu về phẩm chất, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ được quy định trong chuẩn nghề nghiệp. Thay đổi chương trình theo hướng chuẩn hóa đầu ra, tiệm cận chuẩn nghề nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng.
Ở phương diện khác, đối với GV bộ môn trong đó có GV địa lí, bên cạnh việc đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, tiêu chí thì tiêu chuẩn Phát triển chuyên môn, nghiệp vụ gắn trực tiếp với công việc giảng dạy của họ. Các tiêu chí của tiêu chuẩn này nhấn mạnh việc xây dựng kế hoạch dạy học và giáo dục, sử dụng PPDH và giáo dục, kiểm tra, đánh giá kết quả theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS. Đề cao quá trình tự học, tự nghiên cứu để phát triển, nâng cao năng lực chuyên môn của bản thân. Đồng thời, họ phải có năng lực hiểu người học để có thể thực hiện hiệu quả các biện pháp tư vấn và hỗ trợ phù hợp với từng đối tượng HS trong hoạt động dạy học và giáo dục. Như vậy, trong đào tạo SV sư phạm cần chú trọng và tạo cơ hội cho họ phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu để chuẩn bị nền tảng cho việc “học tập suốt đời” – một trong những yêu cầu hết sức quan trọng của GV trong một thời đại mà sự thay đổi diễn ra hết sức nhanh chóng. Bên cạnh đó, SV cần có năng lực trước khi họ thực hiện vai trò hình thành và phát triển năng lực cho HS, bao gồm cả năng lực chuyên môn, năng lực giáo dục và những năng lực chung.
1.1.3.2. Chuẩn đầu ra khối ngành cử nhân sư phạm
Chuẩn nghề nghiệp GV là một trong những cơ sở cho việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo và bồi dưỡng GV. Các trường đại học sư phạm với chức năng cơ bản là đào tạo SV để trở thành GV ở tất cả các bậc học. Sản phẩm đào tạo hướng đến là những SV có “tay nghề” (nghề giáo dục theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục và dạy học). Chính vì thế, SV tốt nghiệp cần đạt được các tiêu chí nghề nghiệp về phẩm chất và năng lực tương ứng nghề nghiệp GV [10]. Về mức độ, mức Đạt trong Chuẩn nghề nghiệp GV phổ thông chính là cơ sở tham chiếu gần nhất để “đo” các phẩm chất và năng lực nghề của giáo sinh. Như vậy, Chuẩn nghề nghiệp GV phổ thông và Chuẩn đầu ra của cử nhân sư phạm phải thống nhất, đồng hướng, đồng dạng, nhưng không đồng nhất [38]. Hai bộ tiêu chuẩn này có những tương đồng và khác biệt cơ bản như sau: