Kinh Nghiệm Của Tỉnh Ninh Bình Trong Phát Triển Kinh Tế Du Lịch


đầu tư vào khu du lịch Văn Lang với tổng số vốn trên 300 tỷ đồng. Tại khu du lịch Bạch Hạc - Bến Gót có 1 dự án cấp phép đầu tư, với số vốn trên 100 tỷ đồng. Tại Khu du lịch Núi Trang - Bãi Bằng đã cấp phép đầu tư cho Công ty liên doanh Phú Minh, với số vốn đầu tư 4 triệu USD. Tại Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh

Thủy: Có 2 dự án trình UBND tỉnh cấp phép đầu tư, với số vốn 250 tỷ đồng; Công ty TNHH Sông Thao - Hà Nội đã được cấp phép đầu tư với số vốn 180 tỷ đồng4. Các dự án khác đang được tích cực xúc tiến mời gọi đầu tư dưới nhiều hình thức.

Nhờ thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, từng bước tạo được những sản phẩm du lịch đa dạng, tạo ra sự hấp dẫn, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch, tăng nguồn thu cho ngân sách, giải quyết một phần việc làm và nâng cao đời sống cho nhân dân. Trong những năm gần đây số lượng khách du lịch lưu trú trên địa bàn tỉnh có mức tăng trưởng hàng năm đạt từ 15-20%, năm sau luôn cao hơn năm trước. Tiềm năng du lịch Phú Thọ đang được thức dậy, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị, an ninh trật tự và an toàn xã hội, giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc văn hóa trên quê hương đất Tổ.

Để nguồn tiềm năng du lịch tiếp tục được khai thác hiệu quả hơn, ngành du lịch Phú Thọ đang có những nỗ lực mới, dành đầu tư xây dựng quy hoạch, lập dự án khả thi xây dựng các khu du lịch tập trung theo định hướng quy hoạch tổng thể đề ra làm cơ sở để gọi vốn đầu tư. Tham mưu với tỉnh xây dựng chính sách ưu tiên phát triển du lịch nhằm thu hút vốn đầu tư. Lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, thực hiện xây dựng có hiệu quả hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch trên địa bàn tỉnh. Đào tạo, quy hoạch, sắp xếp đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác du lịch đảm bảo các tiêu chuẩn và yêu cầu đặt ra, đáp ứng với nhiệm vụ. Thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh phát triển, bình đẳng, theo đúng quy định pháp luật. Xây dựng chiến lược tuyên truyền quảng bá nguồn tiềm năng, thế mạnh du lịch Phú Thọ nhằm thu hút các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.


4Theohttp://www.baophutho.org.vn/baophutho/vn/website/du-lich-le-hoi-am-

thuc/1011798A387/2007/7/108E075FD84/


1.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Ninh Bình trong phát triển kinh tế du lịch

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Cùng với sự phát triển chung của du lịch cả nước, trong thời gian qua du

lịch Ninh Bình cũng đã có bước phát triển đáng kể. Đặc biệt, trong giai đoạn ngành du lịch nói chung gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nhưng ngành du lịch Tỉnh đã biết tập trung khai thác thế mạnh du lịch địa phương và đạt được nhiều thành công đáng ghi nhận.

Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai - 7

Lượng khách quốc tế và nội địa không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành đạt từ 15% - 20%, doanh thu dịch vụ du lịch từng bước được nâng cao, góp phần tích cực vào sự phát triển của kinh tế địa phương. Năm 2009, lượng khách đến Ninh bình đạt 2,4 triệu lượt người, tăng 26%; trong đó khách quốc tế đạt 600.000 lượt, khách lưu trú đạt 130.000 lượt. Nếu như năm 2000, doanh thu du lịch mới chỉ đạt 14.724 triệu đồng, năm 2006 đạt 87.995 triệu đồng tăng gấp 6 lần so với năm 2000 thì đến năm 2009 doanh thu du lịch đã tăng lên 245 tỷ đồng,

tăng 51% so với năm 20085. Bên cạnh đó, du lịch Ninh Bình cũng đã góp phần tạo

thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu ngoại tệ…góp phần tích cực vào công tác xóa đói, giảm nghèo của địa phương.

Nguyên nhân nào đã làm cho du lịch Ninh Bình có được những thành công nổi bật trên. Có thể nói, có được những kết quả trên là do các cấp tỉnh ủy, các ban ngành, đặc biệt là ngành Du lịch Ninh Bình đã có những bước đi chỉ đạo đúng đắn, tiến bộ. Công tác hướng dẫn thanh tra, kiểm tra chấn chỉnh các vi phạm trong kinh doanh du lịch được duy trì. Đơn cử như khu du lịch Tam Cốc – Bích Động, đội ngũ làm nghề chèo đò với hàng ngàn người đã được tập trung huấn luyện phổ biến kiến thức du lịch, tham quan học hỏi kinh nghiệm. Ban quản lý khu du lịch cũng đã cấp giấy chứng nhận người hành nghề cho thợ chụp ảnh nhờ đó giảm hiện tượng chèo kéo khách và phối hợp chặt chẽ với chính quyền xã để thường xuyên vệ sinh môi trường, đảm bảo an ninh trật tự.

Bên cạnh đó, việc đầu tư mạnh cho du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng giao và


5Theohttp://www.vietnamplus.vn/Home/Nam-2009-khach-du-lich-den-Ninh-Binh-tang-dot-

bien/200912/28103.vnplus


xây dựng nhiều nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí đã giúp cho Ninh Bình không những thu hút khách đến mà còn gia tăng được lượng khách lưu trú. Hiện nay, địa phương cũng đang kêu gọi thu hút các dự án đầu tư vào du lịch, cơ sở lưu trú để hướng đến mục tiêu phục vụ lượng khách lớn hơn trong tương lai như chương trình trong quần thể khu du lịch Cố đô Hoa Lư nhằm đáp ứng phục vụ Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội.

Công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, giới thiệu về quê hương và con người Ninh Bình cũng được chú trọng. Nhiều ấn phẩm mới như phim, báo, ảnh, sách…được đưa vào phục vụ khách.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là đội ngũ lao động phục vụ trực triếp trong ngành du lịch như hướng dẫn viên, lễ tân, chạy bàn và các dịch vụ hỗ trợ khác đã được ngành du lịch tỉnh chú trọng và quy hoạch bài bản hơn.

Với những thành công kể trên, đã góp phần khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế du lịch đối với kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình. Du lịch Ninh Bình dần trở thành điểm đến thu hút lớn du khách trong nước và quốc tế.

Bài học kinh nghiệm cho phát triển KTDL ở tỉnh Lào Cai

Như vậy, thông qua việc đánh giá các thành tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến các hạn chế của du lịch Việt Nam và từ việc phân tích, tổng hợp khái quát một số kết quả đạt được về phát triển kinh tế du lịch của Thủ đô Hà Nội - trung tâm văn hóa, du lịch lớn của cả nước; Tỉnh Phú Thọ với nhiều nét tương đồng về văn hóa và tự nhiên; Tỉnh Ninh Bình – một trong những tỉnh đã đạt được nhiều thành công đáng kể trong giai đoạn khó khăn của ngành du lịch Việt Nam vừa qua đã giúp cho Lào Cai có được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá từ việc quản lý, quy hoạch, khai thác và sử dụng trong quá trình phát triển kinh tế du lịch của địa phương như sau:

Một là, Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch phải được quan tâm chỉ đạo. Việc quy hoạch được thực hiện một cách khoa học, thực tiễn giúp cho việc định hướng đầu tư, qui mô đầu tư, phương thức đầu tư và hiệu quả đầu tư. Nhất thiết phải đi từ qui hoạch tổng thể rồi đến quy hoạch chi tiết, đồng thời hướng dẫn thanh tra, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện đúng qui hoạch đã được phê duyệt. Các ngành, các


cấp phối hợp chặt chẽ với ngành du lịch trong công tác QLNN về du lịch, trong đó ngành du lịch phải đi đầu làm nòng cốt trong nghiên cứu, triển khai chiến lược, cơ chế, chính sách phát triển du lịch và thể chế hóa thành các luật lệ, biện pháp và chương trình cụ thể. Bên cạnh đó, thường xuyên nghiên cứu thông tin, kinh nghiệm phát triển KTDL của các địa phương trong và ngoài nước, tổng kết thực tiễn kịp thời để phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn về du lịch của địa phương.

Hai là, Quản lý Nhà Nước về du lịch cần tăng cường trên tất cả các lĩnh vực, việc phối hợp QLNN về du lịch giữa ngành với cấp cơ quan và doanh nghiệp phải thường xuyên và liên tục nhằm đảm bảo sự thống nhất, đúng hướng và nhanh nhậy từ cấp cao nhất trong bộ máy quản lý đến các cấp thừa hành ở địa phương, tạo điều kiện cho du lịch phát triển đúng hướng và hiệu quả hướng tới mục tiêu phát triển du lịch bền vững.

Ba là, Xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên đầu tư và phát triển du lịch phù hợp với điều kiện địa phương và đặc điểm tài nguyên du lịch, với xu thế phát triển du lịch thế giới. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội và cở sở vật chất chuyên ngành du lịch, trước hết phải đầu tư ban đầu bằng ngân sách Nhà Nước và huy động từ nhiều nguồn khác. Chú trọng đào tạo, bối dưỡng và nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực du lịch và giáo dục du lịch toàn dân.

Bốn là, phải chú trọng công tác xúc tiến, quảng bá, tuyên truyền và hợp tác, đầu tư về du lịch. Xúc tiến, quảng bá là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế du lịch, cần được tiến hành một cách khoa học, chuyên nghiệp, sâu rộng và thường xuyên. Tăng cường công tác tuyên truyền ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả trong nước và quốc tế dưới nhiều hình thức đa dạng, đặc biệt tập trung ở những thị trường trọng điểm để phát động, củng cố, mở rộng qui mô thị trường. Song song với nó, cần phải đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế song phương và đa phương nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ, đầu tư quốc tế về mọi mặt. Bên cạnh đó cũng không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch, tăng khả năng cạnh tranh.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở TỈNH LÀO CAI


2.1. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH LÀO CAI‌

2.1.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Lào Cai

Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc miền núi phía Bắc Việt Nam, vị thế của Lào Cai là tiềm năng thiên phú cho du lịch. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên cũng như đặc điểm kinh tế - xã hội riêng của mình, đã tạo cho Lào Cai có một nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú, đan xen và kết hợp hài hòa với nguồn tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo để phát triển kinh tế du lịch của địa phương.

2.1.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý:

Tỉnh Lào Cai được tái lập từ tháng 10 năm 1991 trên cơ sở tách ra từ tỉnh Hoàng Liên Sơn, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ.

Địa dư của Lào Cai được xác định ở vị trí từ 103,50 đến 104,50 kinh độ Đông

và từ 21,60 đến 22,80 vĩ độ Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái và Sơn La.

Ở một vị trí đặc biệt, Lào Cai với lợi thế là cửa ngõ thông thương với Tỉnh Vân Nam và vùng Tây Nam - Trung Quốc, Lào Cai trở thành cầu nối giữa các tỉnh phía sau Việt Nam với các tỉnh phía Tây Nam – Trung Quốc. Từ Lào Cai du khách có thể đi du lịch sang Trung Quốc hoặc vào sâu nội địa Việt Nam. Bên cạnh đó, Lào Cai nằm trong trục hành lang kinh tế Đông Tây Hải Phòng – Lào Cai – Côn Minh tạo điều kiện thuận lợi cho mở cửa giao lưu, phát triển kinh tế toàn tỉnh nói chung và kinh tế du lịch nói riêng.

* Đặc điểm địa hình:

Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc của đất nước, thuộc địa bàn núi cao nhất Việt Nam, địa hình bị chia cắt mạnh mẽ, điều này liên quan chặt chẽ với đặc


tính của các nhóm đá cấu tạo chủ chốt ở đây: Nhóm đá Granit, đá Phiến và Sa thạch. Tuy nhiên, địa hình cũng phân hóa thành hai vùng khác nhau.

- Vùng núi cao với độ cao từ 700m trở lên, được hình thành từ những dãy núi, khối núi lớn, trong đó có 2 dãy núi chính là Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi chạy song song với nhau theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Điểm cao nhất là đỉnh núi Phan Xi Păng – mái nhà của đất nước có độ cao 3.143m, Tả Giảng Phình có độ cao 3.096m, Pu Luông (2.983m), Sa Phin (2.897m)…

- Vùng địa hình thấp chủ yếu là các thung lũng dọc sông, suối lớn và các kiểu địa hình máng trũng có bề mặt dạng đồi, các bồn địa chân núi Hoàng Liên Sơn như Than Uyên. Bên cạnh thung lũng lớn dọc sông và các thung lũng nhỏ hẹp bị bao bọc bởi các sơn nguyên, dãy núi.

Địa hình núi cao chia cắt mạnh, độ dốc lớn có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sản xuất nông nghiệp, khai thác khoáng sản, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng song đối với du lịch nó lại đưa lại những giá trị nhất định, tạo nên tiềm năng du lịch tự nhiên như những vách núi đá, đỉnh núi hiểm trở thuận lợi cho du lịch thể thao leo núi, chinh phục các đỉnh núi cao, những hang động, thung lũng…đáp ứng nhu cầu tham quan, nghiên cứu của du khách. Bên cạnh đó, trên nền địa hình ấy là thảm thực vật tự nhiên phong phú, tạo điều kiện thu hút và phát triển loại hình du lịch sinh thái.

* Khí hậu:

Lào Cai nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa bị chi phối bởi nhiều yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất hiện ở dạng nhiệt độ trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá (vùng Sapa có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 0oC và có tuyết rơi).

Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng cao từ 150C đến 200C (riêng Sa Pa từ 140C đến 160C và không có tháng nào lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800 –


2.000mm/năm. Ở vùng thấp, nhiệt độ trung bình từ 230C đến 290C, lượng mưa bình quân khoảng 1.400 - 1.700mm/năm.

Nhìn chung, Lào Cai có nhiều tiểu vùng khí hậu tốt, nhất là những vùng có độ cao từ 1.000m trở lên, thời tiết mát mẻ trong mùa hè (đặc biệt là ở Sapa, Bắc Hà), mùa đông ít lạnh hơn so với những nơi có cùng vĩ độ ở sườn Đông dãy Hoàng Liên Sơn (khoảng 20C) do vậy rất thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng, phục hồi sức khỏe.

* Thủy văn:

Đặc điểm địa hình và khí hậu đã tạo cho Lào Cai có hệ thống sông suối khá dày đặc và lượng nước chảy phong phú. Trên địa bàn tỉnh có hai hệ thống sông chính chảy qua là Sông Hồng và Sông Chảy.

Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam – Trung Quốc, có chiều dài chảy qua tỉnh là 130km. Ngoài vai trò trong phát triển kinh tế, sông Hồng còn có vai trò to lớn trong quá trình giao lưu giữa Lào Cai với các vùng trong và ngoài nước thông qua hệ thống giao thông đường thủy.

Sông Chảy là con sông lớn thứ hai chảy qua địa bàn tỉnh với 124km chiều dài, từ Pha Luông – Mường Khương qua cao nguyên Bắc Hà tới Phố Ràng.

Ngoài 2 con sông lớn, trên địa bàn tỉnh còn có hàng nghìn con sông, suối lớn nhỏ (trong đó có 107 sông, suối dài từ 10 km trở lên) cũng có giá trị cho phát triển kinh tế - xã hội cũng như du lịch của Lào Cai như: Sông Nậm Nhi, sông ngòi Đum…và rất nhiều con suối nhỏ như suối Mường Hoa, suối Tiên…Bên cạnh đó, theo các tài liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước nóng có nhiệt độ khoảng 400C và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa hiện chưa được khai thác, sử dụng, tạo tiềm năng trong phát triển loại hình du lịch nghỉ ngơi, chữa bệnh.

* Tài nguyên sinh vật:

Ở Lào Cai, theo độ cao khác nhau đã tạo nên nhiều kiểu rừng: Rừng kín với các loại cây lá rộng xanh quanh năm và các loại dây leo, bụi rậm chằng chịt, lên cao hơn là rừng hỗn hợp cây lá rộng, lá kim, từ độ cao 2.500m trở lên hầu như không còn cây cối nhiều, chỉ có lác đác Trúc núi.


Thực vật rừng rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của thực vật. Riêng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn đã phát hiện được 847 loài thực vật thuộc 164 họ, 5 ngành, trong đó có 6 loại quý hiếm đối với nước ta và thế giới là: Bách Xanh, Thiết Sam, Thông tre, Thông đỏ, Bách tùng, Dẻ tùng.

Động vật rừng Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái. Trong đó thú có 84 loài thuộc 28 họ, 9 bộ; chim có 251 loài thuộc 41 họ, 14 bộ; bò sát co 73 loài thuộc 12 họ…Bên cạnh đó, Lào Cai có một số loài động vật đặc hữu như Gà lôi tía (ở độ cao 2000-3000m), Khướu đuôi đỏ, Rắn lục sừng…Đây là nguồn tiềm năng có giá trị lớn cho phát triển du lịch nhất là du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu khoa học.

2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai

Đặc điểm dân cư và người lao động:

+ Dân cư, dân tộc

Toàn tỉnh Lào Cai có 613.075 người với mật độ dân số là 96 người / km2.

Lào Cai là vùng đất có nhiều có nhiều dân tộc cùng chung sống hòa thuận, với 25 nhóm ngành dân tộc. Trong đó dân tộc thiểu số chiếm 65% dân số toàn tỉnh gồm có: Dân tộc Hmông chiếm 22,21%, tiếp đến là dân tộc Tày 15,84%, Dao 14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4% còn lại là các dân tộc đặc biệt ít người như Phù Lá, Sán Chay, Hà Nhì, La Chí,..., dân tộc Kinh chiếm 35%,.

Mỗi dân tộc có một tập quán sinh hoạt riêng tạo nên sự phong phú đa dạng của văn hóa Lào Cai, được thể hiện qua cấu trúc nhà ở, trang phục, nghệ thuật ca múa nhạc, văn hóa dân gian, tín ngưỡng…Đây chính là thế mạnh và là tiềm năng to lớn để Lào Cai phát triển du lịch dựa trên nền văn hóa đa sắc tộc.

+ Lao động:

Do kết cấu dân số trẻ nên Lào Cai có một nguồn lao động tương đối dồi dào. Tổng số lao động là 337.803 người chiếm 55,1% dân số toàn tỉnh. Đến thời điểm hiện nay, Lào Cai có 3.200 lao động trực tiếp trong ngành du lịch, trong đó trình độ từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 20%. Đa số có trình độ trung, sơ cấp, chưa qua đào tạo chuyên ngành du lịch và làm việc theo hợp đồng thời vụ.

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 19/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí