dụng đối với các trường đại học công lập thuộc Trung ương, trình Chính phủ xem xét cho ý kiến trước khi ban hành để thực hiện.
- Thủ trưởng các trường đại học công lập căn cứ vào các quy định nêu trên được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm xây dựng và quyết định phương án thu học phí cụ thể áp dụng đối với sinh viên của đơn vị mình.
Thứ ba, với giải pháp trên thì đối với nhóm các trường trường đại học tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có quy chế cho phép xây dựng và quyết định phương án thu học phí áp dụng với đơn vị mình theo đúng các nguyên tắc xác định mức thu học phí do Nhà nước quy định.
Thứ tư, phương án thu học phí của các trường đại học trước khi ban hành để thực hiện phải trình cơ quan tài chính xem xét cho ý kiến; khi đã quyết định ban hành để thực hiện phải công bố công khai.
Trường đại học thuộc Trung ương gửi phương án thu học phí cho cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp, cơ quan quản lý cấp trên và Bộ Tài chính xem xét cho ý kiến. Trường hợp phương án thu học phí của các đơn vị không tuân thủ đúng các nguyên tắc xác định mức thu học phí đã quy định, cơ quan tài chính có quyền đề nghị các trường đại học điều chỉnh lại cho phù hợp.
Công khai là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính. Công khai phương án thu học phí của các trường đại học nhằm đảm bảo quyền chủ động lựa chọn trường, chọn chương trình đào tạo của người học, tăng cường công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và vai trò giám sát của các tầng lớp nhân dân đối với hoạt động của các đơn vị. Phương án thu học phí các trường đại học phải được công khai tới các đối tượng tuyển sinh trước khi tổ chức công tác đăng ký tuyển sinh.
Thứ sáu, quy định cụ thể nội dung chi từ nguồn học phí.
Quy định cụ thể về nội dung chi từ nguồn học phí nhằm đảm bảo học phí thu được của người học được sử dụng đúng mục đích là trang trải cho các chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ giáo dục cho người học; hạch toán thu chi học phí minh bạch, tránh tình trạng thương mại hoá trong giáo dục.
Tán thành với quy định của Nghị định 43/2006/NĐ-CP là bỏ quy định các trường đại học công lập, phải trích tối thiểu 35% (khối giáo dục), 45% (khối đào tạo) số thu học phí để tăng cường CSVC và tỷ lệ học phí dành hỗ trợ công tác quản lý và điều tiết chung thuộc ngành GD- ĐT ở địa phương. Bởi vì, cũng theo quy định của Nghị định 43/2006/NĐ-CP thì các cơ sở giáo dục công lập có nguồn thu học phí phải thực hiện trích tối thiểu 25% chênh lệch thu lớn hơn chi trong năm tài chính sau khi đã thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN (nếu chênh lệch thu lớn hơn
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Điểm Quản Lý Tài Chính Các Trường Đại Học Công Lập Việt Nam
- Quan Điểm Quản Lý Tài Chính Các Trường Đại Học Công Lập Việt Nam
- Mức Độ Tác Động Đến Khả Năng Tự Chủ Của Các Nhân Tố
- Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo – Cơ Sở Để Tăng Các Khoản Thu Ngoài Nsnn
- Quản lý tài chính các trường Đại học công lập ở Việt Nam - 26
- Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo, (2009-2010), Ba Công Khai Của Các Trường Đại Học Công Lập,
Xem toàn bộ 246 trang tài liệu này.
chi, lớn hơn một lần quỹ lương cấp bậc, chức vụ trong năm của đơn vị) để tạo lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Hơn nữa, thu học phí là nhằm trang trải các chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động giáo dục của các trường đại học.
Thứ bảy, thành lập cơ quan dự báo về nhu cầu ngành nghề của xã hội làm cơ sở xây dựng khung học phí phù hợp với khả năng đào tạo của các trường đại học
Hiện tại, cơ cấu đào tạo đại học của Việt Nam có sự mất cân đối (đã được đề cập ở chương 2). Vì vậy, trong thời gian tới nhà nước cần thực hiện những khảo sát nghiên cứu nhu cầu xã hội đối với từng ngành nghề . Kết quả khảo sát này là một căn cứ quan trọng trong việc xây dựng các chính sách, các quy định liên quan đến học phí hay các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển các lĩnh vực đào tạo khác nhau của các trường đại học.
Đặc biệt, tách biệt giữa việc xây dựng và thực thi chính sách học phí với chính sách xã hội để đảm bảo nguồn cho các trường đại học công lập phát triển tốt hơn.
3.2.1.5. Hoàn thiện cơ chế phân bổ dự toán chi NSNN cho giáo dục đại học
Để hoàn thiện cơ chế phân bổ dự toán chi NSNN cho giáo dục, có thể tham khảo các mô hình phân bổ NSNN như sau.
Cải cách việc cung cấp tài chính cho GD đại học công lập trong nhiều năm qua có một số vấn đề bức xúc gây ra sự quan tâm đặc biệt đối với các nhà nghiên cứu, nhà quản lý ở khắp trên thế giới. Những cải cách quan trọng nhất trong lĩnh vực này là việc phân bổ chỉ tiêu từ trung ương về các trường đại học và những cải cách trong việc cấp ngân sách.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới về các chính sách và thực tiễn của GD đại học đã rút ra 4 loại mô hình phân bổ NSNN cho các trường đại học [33] đó là:
-> Mô hình dựa vào chính sách “thương lượng”. Đây là phương pháp ít được dùng vì không khuyến khích hoạt động hiệu quả và gây khó khăn cho việc điều chỉnh nguồn lực khi tình hình thay đổi.
-> Mô hình phân bổ ngân sách “dựa trên đầu vào”. Mô hình này được ưa chuộng hơn so với mô hình ngân sách “thương lượng”, nhưng không đủ khuyến khích tính hiệu quả. Nó phản ánh được sự chênh lệch về chi phí nhưng không khuyến khích các trường giảm bớt chi phí cũng như nâng cao chất lượng so với định mức.
-> Mô hình “dựa trên đầu ra. Mô hình này gắn việc cấp kinh phí với kết quả thực hiện. Chỉ số thực hiện dùng để xác định mức kinh phí được cấp là dựa trên số sinh viên tốt nghiệp. Đây là cách đo đúng hơn về hiệu quả giáo dục so với mô hình “dựa trên đầu vào”, đặc biệt trong trường hợp tỷ lệ bỏ học và lưu ban cao. Khi nghiên cứu trường hợp của Ôxtrâylia, Đan Mạch, Hà Lan; Ngân hàng Thế giới đã rút ra kết luận rằng: việc áp dụng công thức cấp kinh phí dựa trên đầu ra
kéo theo việc giảm lượng hao hụt sinh viên và nâng cao hiệu quả nói chung của hệ thống GD đại học công cũng như hiệu quả sử dụng nguồn lực.
-> Mô hình “dựa trên cơ sở chất lượng”; Mục tiêu của cơ chế tài trợ này là thúc đẩy cạnh tranh giữa các trường đại học nhằm nâng cao chất lượng và do đó thu hút các sinh viên giỏi nhất. Hiện nay mới chỉ có Chilê thử nghiệm mô hình này.
Việt Nam hiện nay, việc lựa chọn mô hình phân bổ ngân sách “dựa trên đầu vào” trong nhiều năm đã không khuyến khích tính hiệu quả. Đó là một trong những biểu hiện của sự bất cập trong cơ chế quản lý NSNN trong GD đại học. Vì vậy, cơ chế phân bổ NSNN cho các trường đại học cần phải được cải tiến.
Lựa chọn mô hình phân bổ ngân sách các trường đại học công lập ở Việt Nam.
Phân bổ ngân sách “dựa trên đầu ra” hay dựa trên số sinh viên tốt nghiệp có việc làm là một phương pháp đang áp dụng ở một số nước trên cơ sở có hệ thống kiểm định chất lượng chuẩn. Song cơ chế khó áp dụng đối với Việt Nam, nhưng cũng nên được nghiên cứu và thử nghiệm. Vì tỷ lệ sinh viên có việc làm và làm đúng chuyên môn là chỉ tiêu thể hiện hiệu quả đào tạo cao nhất. Đặc biệt, theo tác giả căn cứ phân bổ NSNN các trường đại học công lập cần được xem xét từ hệ thống chỉ tiêu mà tác giả đã đề cập trong chương 1.
Để có thể áp dụng mô hình phân bổ ngân sách “dựa trên đầu ra”, cần xây dựng hệ thống thông tin cập nhật hàng năm về điều tra sinh viên tốt nghiệp có việc làm từ cấp trường; công bố tất cả các sản phẩm đầu ra gắn với hệ thống chỉ tiêu đánh giá quản lý tài chính các trường đại học công lập, điều đó có ý nghĩa:
-> Giúp nhà trường tiếp cận gần hơn với nhu cầu của thị trường lao động.
->Cung cấp thông tin chính xác làm cơ sở cho các cơ quan hoạch định chính sách và phân bổ ngân sách xem xét và hoàn chỉnh cơ chế phân bổ ngân sách mới.
-> Là kênh thông tin hữu ích, cần thiết để người học ra quyết định cho việc lựa chọn theo học ngành nghề thích hợp.
Điều tra sinh viên tốt nghiệp hàng năm đối với Việt Nam là cách làm rất mới. Trong khuôn khổ của dự án giáo dục đại học đa số các trường đều phải tham gia điều tra khảo sát; việc làm này đã và đang hoàn thiện để đảm bảo tính chính xác và có độ tin cậy cao của thông tin.
Hoàn thiện, xây dựng và thực hiện cơ chế hợp đồng, đấu thầu cung ứng dịch vụ giáo dục do Nhà nước đặt hàng.
3.2.1.6. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý tài chính công
Để tăng cường nguồn tài chính trong các trường đại học công lập và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính này, Bộ Tài Chính cần lên phương án bổ sung văn bản pháp lý khác, cụ thể hơn Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006. Các nhà hoạch định chính sách nên
thống nhất quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành nhằm tránh tình trạng cùng một nội dung lại có nhiều văn bản quy định xử lý, giải quyết khác nhau. Ban hành các văn bản luật và dưới luật một mặt tránh chông chéo, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tận dụng cơ sở vật chât, khai thác hiệu quả cơ sở vật chất tạo nguồn thu từ liên doanh, liên kết. Ví dụ: Theo NĐ43/2006/NĐ-CP, cho phép các đơn vị sự nghiệp công lập được phép: “Sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết hoặc góp vốn liên doanh với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị theo quy định hiện hành của nhà nước”, nhưng trong Luật đất đai lại cho rằng “không được sử dụng đất đai công để liên doanh liên kết”. Ngoài ra, Bộ Tài Chính cũng cần ban hành các văn bản hướng dẫn kịp thời và phù hợp với đặc thù hoạt động từng lĩnh vực, khuyến khích một số trường đại học công lập chuyển đổi hoạt động theo loại hình dân lập, tư thục. Đồng thời, quy định và tạo cơ chế khuyến khích khi chuyển sang hoạt động theo các loại hình trên, trường được hưởng các chính sách ưu đãi: về thuế, đất đai, được tiếp tục thuê hoặc mua lại trụ sở, tài sản của Nhà nước đã đầu tư,...
Tính đến thời điểm hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến nội dụng tự chủ tài chính và đưa ra những kiến nghị gần với kiến nghị của tác giả. Tác giả mong muốn kiến nghị này sẽ được xem xét tạo tiền đề tự chủ tài chính cho các trường đại học công lập. Ban hành những quy định cho phép trường tự chủ tuyển sinh, tự chủ đào tạo, tự chủ mức thu.
Phần lớn các trường đại học, cao đẳng công lập đều trực thuộc các bộ, ngành và các địa phương. Trong đó, bộ quản lý nhiều trường đại học nhất là Bộ Giáo dục và Đào tạo (54 trường – 48 trường đại học và 6 trường cao đẳng), tiếp đến là Bộ Y tế và Bộ Văn hóa Thông tin (6 trường). Nhiều bộ, ngành khác đều quản lý từ một đến hai trường. Một số địa phương gần đây thành lập các trường đại học cũng được xem như là chủ thể chủ quản các trường đó.
Với cơ chế quản lý như hiện nay, có những mặt thuận lợi: giúp cho bộ, ngành quản lý, hỗ trợ các trường về tài chính, tổ chức nhân sự, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế,.v.v… nhất là trong giai đoạn mới hình thành hệ thống giáo dục đại học Việt Nam và trong bối cảnh nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Tuy nhiên, sau nhiều năm tồn tại, cơ chế bộ chủ quản bộc lộ những hạn chế yếu kém. Trước hết, sự khép kín trong từng bộ, ngành dẫn
đến cát cứ, cục bộ. Trong nhiều công việc, bộ chủ quản trở thành cơ quan trung gian, trường chịu sự chỉ đạo của nhiều cơ quan quản lý. Hình thức này làm mất đi tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của trường, tính thống nhất của hệ thống cũng như sức ép tăng lên trong khi hiệu quả giảm xuống.
Hơn nữa, chất lượng của các trường thuộc các bộ, ngành khác nhau cũng khó mà bảo đảm mặt bằng chung về trình độ đào tạo, chuẩn kiến thức, nội dung chương trình hẹp và thiếu tính mềm dẻo. Đó là chưa kể đến việc bản thân các trường có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào các nguồn lực của bộ chủ quản, khiến cho môi trường hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học hết sức thụ động.
Để thực hiện được các giải pháp trên liên quan đến cơ chế quản lý bộ chủ quản là trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội cao hơn cho các trường đại học, để các trường có được quyền tự chủ nhất định cho các hoạt động học thuật, sáng tạo, năng động và hiệu quả trong các hoạt động của nhà trường, qua đó tạo nên sự đột phá và phát triển của từng trường dẫn đến sự phát triển của toàn hệ thống trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Vai trò của Nhà nước là phải nghiên cứu quyền tự chủ của các trường đại học ở lĩnh vực nào, đến đâu, tự chủ đến mức nào về tài chính. Khi giao quyền tự chủ cho các trường thì vai trò của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo như thế nào trong nghĩa vụ giám sát chất lượng giáo dục và các vấn đề quản lý liên quan.... Tất cả những cơ chế chuyển đổi cần phải có lộ trình, bước đi thích hợp.
Tuy nhiên, thực hiện điều này không dễ dàng khi thói quen tư duy quản lý theo cơ chế hành chính bao cấp của bộ chủ quản và các trường đại học vẫn tồn tại. Khi chưa có những nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về lý luận và thực tiễn của cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội để có được một mô hình rõ rệt về hoạt động của hệ thống trường đại học ở Việt Nam theo cơ chế này, thì tư duy theo cơ chế cũ vẫn là điều đáng ngại trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Điều đó có nghĩa là cần tiến hành cải cách trước nhu cầu và sức ép phát triển giáo dục đại học. Bởi vậy, hoàn thiện cơ chế bộ chủ quản cần được thực hiện đối với giáo dục đại học, từ đó tạo ra không gian và môi trường rộng lớn cho sự phát triển giáo dục đại học trên cơ sở giao cho các trường quyền tự chủ về các mặt, bao gồm tổ chức, nhân sự, tài chính, đào tạo. Đồng thời, cần có quy trình giám sát của Hội đồng trường. Muốn thực hiện tốt việc này, cần xác lập mô hình tổng quát của hệ thống giáo dục đại học hoạt động tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội. Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước và của các trường đại học cũng được khẳng định rõ ràng hơn. Quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành là xây dựng chiến lược, phương hướng, chủ trương phát triển cũng như kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm cho phát triển giáo dục đại học.
Ngoài ra, bảo đảm điều kiện về tài chính cũng như ban hành chế độ chính sách, quy trình kiểm định chất lượng để phát triển hệ thống đào tạo cũng có vai trò quan trọng. Quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học được thực hiện thông qua hoạt động của hội đồng trường như xây dựng mục tiêu, chiến lược, phương hướng hoạt động và phát triển, huy động và giám sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trường, quy định về chủ trương sử dụng tài chính, tài sản, v.v…
3.2.2. Nhóm giải pháp vi mô
3.2.2.1. Đa dạng hóa các nguồn tài chính tại trường đại học công lập
Thứ nhất, có cơ chế, chính sách và tổ chức nhằm huy động nguồn lực từ các tổ chức xã hội, các hiệp hội và các doanh nghiệp vào hoạt động của nhà trường.
Trên cơ sở đề xuất với Nhà nước sớm nghiên cứu và ban hành cơ chế để các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp tham gia vào việc đề xuất và đánh giá hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường đại học; đồng thời, có cơ chế huy động nguồn tài chính ngoài NSNN từ các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp và các doanh nghiệp tài trợ cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường đại học.
- Đối với các doanh nghiệp, là người trực tiếp sử dụng sản phẩm đào tạo, do đó Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp hỗ trợ đào tạo. Bản thân các chủ doanh nghiệp đều nói rằng, doanh nghiệp sẵn sàng ủng hộ tài chính cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường đại học, song tiền ủng hộ đó cần được tính vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Vì thế, cần sửa đổi, bổ sung quy định tài chính, tính vào chi phí và miễn trong doanh thu tính thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp về những khoản ủng hộ các trường đại học trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học.
- Cần khuyến khích các quỹ hỗ trợ hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các trường đại học. Hiện nay, các quỹ hỗ trợ hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các trường đại học chưa phát triển. Hiện tại có một số quỹ như Quỹ khuyến học và Quỹ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam,.. Đối với các doanh nghiệp, hiện có một số doanh nghiệp tài trợ cho các trường thông qua việc trao học bổng cho sinh viên khá giỏi. Tuy nhiên, phạm vi và quy mô chưa đáng kể. Từ kinh nghiệm các nước phát triển, Nhà nước sớm có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, các hiệp hội, các nhà hảo tâm xây dựng Quỹ hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn, cho phép Quỹ mang tên những doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cá nhân sáng lập và tài trợ.
- Nhà nước, các đơn vị đứng ra đồng tổ chức các cuộc thi nghiên cứu khoa học, tìm kiếm tài năng trẻ trong các trường đại học thông qua đó xây dựng quỹ để tài trợ cho các trường đạt chuẩn quốc gia, tiến tới xây dựng trường đại học đạt chuẩn quốc tế.
Thứ hai, nâng cao năng lực nội sinh của các trường đại học. Để nâng cao năng lực nội sinh của các trường đại học, một trong những giải pháp cụ thể đã được trình bày trong phần 3.2.2.2, hơn nữa chú trọng giải pháp sau:
Phát huy vai trò của Hội đồng trường, thu hút các đại diện từ các doanh nghiệp tham gia hoạt động của Hội đồng khoa học và đào tạo trong các trường đại học. Hiện nay nhiều trường đại học ở các nước tiên tiên trên thế giới đã thực hiện cơ chế quản lý đại học trong đó nhấn mạnh vai trò của Hội đồng trường (HĐT). Theo họ, HĐT là tổ chức đứng cạnh và đứng trên ban giám hiệu. Ở Mỹ, cơ cấu tổ chức của các trường đại học là: Chủ tịch HĐT, Tổng hiệu trưởng, Hiệu trưởng các trường thành viên, trong đó Chủ tịch HĐT có quyền lực cao nhất. Ở một số nước, số thành viên bên ngoài trường và thành viên là sinh viên chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu HĐT. HĐT ngoài việc quyết định những vấn đề lớn về phát triển trường (chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn và trung hạn, xác định mô hình tổ chức trường, đề cử Hiệu trưởng) còn coi trọng quan hệ đối ngoại như: xin tài trợ, đề nghị đóng góp kinh phí từ các nhà đầu tư, các cựu sinh viên của trường.
Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 của Thủ tướng Chính Phủ về điều lệ trường đại học, một nội dung quan trọng của Quyết định là thành lập HĐT ở các trường công lập và coi HĐT là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của trường đại học. Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 cũng xác định rõ về cơ cấu tổ chức và tính chất, vai trò của “HĐT là cơ quan quản lý của trường đại học, HĐT quyết định các chủ trương lớn để thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học”. Theo đó, HĐT có các nhiệm vụ: Quyết nghị về mục tiêu chiến lược, kế hoạch phát triển của trường bao gồm dự án, quy hoạch, kế hoạch phát triển trung và dài hạn phù hợp với quy hoạch mạng lưới các trường đại học Nhà nước; Quyết nghị về dự thảo quy chế tổ chức và hoạt động của trường hoặc các bổ sung, sửa đổi quy chế trước khi Hiệu trưởng trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt; Quyết nghị chủ trương chi tiêu, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị từ nguồn vốn tự có của trường; Giám sát thực hiện “quy chế thực hiện dân chủ trong các hoạt động của nhà trường” do Bộ trưởng Bộ GD và ĐT ban hành và các Quyết nghị của HĐT, báo cáo cơ quan chủ quản và Bộ GD và ĐT.
Sự thành lập HĐT là cần thiết, bởi lẽ trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, Giáo dục đại học theo quy định của WTO là một loại hoạt động dịch vụ, chứ không phải là hoạt động sự nghiệp như lâu nay chúng ta vẫn quan niệm. Các trường đại học phải hoạt động theo cơ chế của doanh nghiệp, có Hội đồng quản trị- HĐT và tổ chức điều hành- Hiệu trưởng. Khi thực hiện Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2010 quyền tự chủ và trách nhiềm xã hội của các trường đại học được nâng cao. Với tư cách là người đại diện theo pháp luật và chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý điều hành các hoạt động của trường, Hiệu trưởng sẽ có quyền rất lớn. Vì vậy,
bên cạnh thực hiện cơ chế điều hành của Hiệu trưởng cần có cơ chế quyết định các chủ trương lớn và giám sát của HĐT để thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học và điều hành có hiệu quả, đảm bảo an toàn cho các quyết định của Hiệu trưởng. Như vậy, chỉ khi có quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của trường đại học công lập được nâng cao thì HĐT mới là cần thiết. Bởi vì, nếu theo cơ chế hiện nay, các trường hoạt động chủ yếu theo cơ chế xin
– cho và theo sự quản lý chặt chẽ và gò bó của Bộ thì tổ chức ra HĐT để làm gì và quyết định được những vấn đề gì trong phát triển của nhà trường. Thật vậy, nhà trường tồn tại và phát triển bằng nguồn vốn cấp phát từ NSNN, kinh phí thường xuyên, kinh phí xây dựng cơ bản và kể cả tiền thu học phí theo mức quy định của Nhà nước, chỉ tiêu với mức trên 100 triệu đồng phải xinh ý kiến của Bộ. Trường tuyển sinh theo chỉ tiêu duyệt của Bộ và Bộ đứng ra tổ chức thi tuyển sinh cho các trường. Điều đó có nghĩa là: trên thực tế Bộ đã chi phối hết các vấn đề thuộc về phát triển trường từ chiến lược, kế hoạch dài hạn, trung hạn đến tác nghiệp.
Cho tới thời điểm tháng 7/2007, trên cả nước đã có một số trường đại học công lập thành lập Hội đồng trường và đưa vào hoạt động của HĐT như: trường đại học Giao thông- Vận tải, trường đại học Kinh tế quốc dân, trường đại học Kinh tế HCM, trường đại học Tây Nguyên, Học viện Tài chính- Kế toán… và một số trường đang trong quá trình chuẩn bị thành lập như: Đại học Thương mại, Đại học Ngoại thương, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Nông nghiệp 1.
Chưa có căn cứ thực tế nào và chưa có đầy đủ thời gian để đánh giá đầy đủ vai trò, tác dụng của HĐT đối với các trường công lập đã thành lập HĐT. Tuy nhiên qua khảo sát, ở một số trường có HĐT tôi nhận thấy sơ bộ: vai trò của HĐT trong hoạt động của trường còn mờ nhạt, hoạt động của HĐT còn lúng túng, nội dung quản lý của HĐT chưa cụ thể, hiệu lực và hiệu quả hoạt động chưa cao.
Nguyên nhân chính của tình hình đó là do: sự thành lập HĐT chưa thật bức bách khi Nhà nước, Bộ chưa trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học. Khi HĐT còn làm những việc trùng lặp với hoạt động lãnh đạo của Đảng Ủy trường; văn bản Nhà nước chưa có sự hướng dẫn cụ thể về hoạt động của HĐT và cơ quan quản lý cấp trên, không có sự theo
dõi chỉ đạo của HĐT; tổ chức nhân sự của HĐT quá mỏng, thiếu vắng các đại diện là nhà doanh nghiệp, nên việc huy động trí tuệ và nguồn lực tài chính từ xã hội còn hạn hẹp. Vai trò của hội đồng trường chưa thực sự phát huy vai trò, chỉ là hình thức, quy chế hoạt động không rõ ràng, chưa công khai, sau khi một số trường đã tiến hành thành lập HĐT cũng không công khai kết quả và mức độ ảnh hưởng đến hoạt động của trường, chưa có bất cứ hội nghị nào đưa ra tổng kết đánh giá mức độ cần thiết và giải pháp cho hoạt động của HĐT.
Để phát huy vai trò của HĐT về phương diện tự chủ tài chính, tôi đề xuất một số vấn đề sau:
+ Các trường chưa có HĐT cần khẩn trương thành lập HĐT theo quy trình hướng dẫn của Bộ.