triển. Ở các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì có mục đích, tính chất và chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác nhau.” [22, tr.23]
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của kinh tế du lịch
Từ thực tiễn hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức, các nước trong lĩnh vực du lịch, các đối tượng tiêu dùng sản phẩm du lịch, dịch vụ. Kinh tế du lịch có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nói đến KTDL tức là đề cập đến các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, trong đó loại hình dịch vụ là chủ yếu.
Trên cơ sở tài nguyên du lịch, chủ thể KDDL (cá nhân hoặc là tổ chức) sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của khách du lịch, sản phẩm đó có thể là vật chất hoặc phi vật chất. Sự vận hành của KTDL lấy tiền tệ làm môi giới, thông qua hoạt động trao đổi sản phẩm du lịch giữa người đi du lịch với người KDDL, lấy vận động mâu thuẫn giữa hai mặt cung cấp sản phẩm du lịch và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm du lịch làm đặc trưng chủ yếu.
Thứ hai, trong điều kiện thị trường, việc thực hiện thông suốt hoạt động KTDL được quyết định bởi sự điều hòa nhịp nhàng giữa hai phía cung và cầu du lịch.
Việc cung cấp sản phẩm du lịch không thể tách rời nhân tố kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - xã hội. Vì thế sự vận hành KTDL tất nhiên chịu ảnh hưởng và chế ước của những điều kiện kinh tế - xã hội. Hoạt động kinh doanh du lịch có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu tiêu thụ của khách. Chất lượng của một sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ cảm nhận về chất lượng của khách du lịch, chất lượng của sản phẩm du lịch được đánh giá đều mang tính chủ quan, phụ thuộc vào nhu cầu thị hiếu, mức độ thỏa mãn của du khách đến đâu. Bởi vì, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm du lịch là nhu cầu mang tính đặc thù tức là những nhu cầu của du khách mà nơi họ sinh sống không thể có được chứ không phải là những thứ cao cấp hoặc quý hiếm. Trên thị trường du lịch, ngoài những đặc điểm như thị trường hàng hóa nói chung, hàng hóa du lịch còn có những đặc điểm khác các hàng hóa thông thường là: Hàng hóa trao đổi giữa hai bên
cung và cầu không phải chỉ là vật cụ thể; đối với khách du lịch cái được là sự cảm giác, thể nghiệm hoặc hưởng thụ. Sự trao đổi sản phẩm du lịch và tiền tệ do hai bên cung, cầu du lịch tiến hành không làm thay đổi quyền sở hữu sản phẩm du lịch, trong quá trình chuyển đổi cũng không xảy ra sự chuyển dịch sản phẩm, chỉ là du khách có quyền chiếm hữu tạm thời sản phẩm du lịch tại nơi du khách đến để thực hiện “cầu du lịch” của mình. Cùng một sản phẩm du lịch vẫn bán được nhiều lần cho nhiều du khách khác nhau sử dụng, sản phẩm du lịch chỉ tạm thời chuyển dịch quyền sử dụng, còn quyền sở hữu trước sau vẫn nằm trong tay người kinh doanh. Tất cả những tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn chỉ trở thành sản phẩm du lịch khi nó phải được con người đầu tư, tôn tạo và sử dụng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Đây chính là đặc điểm cơ bản của KTDL.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai - 1
- Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai - 2
- Kinh Tế Du Lịch Và Phát Triển Kinh Tế Du Lịch
- Vai Trò Của Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Đối Với Đời Sống Kinh Tế - Xã Hội
- Số Lượng Khách Quốc Tế Đến Việt Nam (2006 – 5/2010)
- Kinh Nghiệm Của Tỉnh Ninh Bình Trong Phát Triển Kinh Tế Du Lịch
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
Thứ ba, quá trình phát triển KTDL gắn liền với quá trình vận động phát triển của LLSX và khả năng liên kết rộng rãi của các quốc gia dân tộc.
Khi LLSX càng phát triển, trình độ nhận thức của con người luôn luôn được nâng cao, khoa học – công nghệ được nhanh chóng áp dụng vào quá trình sản xuất, của cải do con người tạo ra ngày càng nhiều, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội thì KTDL càng có môi trường hoạt động rộng rãi, khả năng liên kết cao không chỉ đối với các ngành kinh tế khác trong tổng thể nền kinh tế của một quốc gia và còn liên kết rộng rãi với các ngành kinh tế, nhiều lĩnh vực khác của các nước trên thế giới nữa. Là ngành kinh tế tương đối tổng hợp bởi hoạt động kinh doanh biểu hiện nhiều mặt trong lĩnh vực của đời sống con người như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho nên khi được tổ chức khoa học, điều hòa nhịp nhàng, các khâu, các bước luân chuyển hợp lý, cơ chế quản lý đồng bộ, đa dạng về hình thức sở hữu, quan hệ sản xuất phù hợp mở đường cho LLSX phát triển sẽ tạo ra hiệu quả hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh và góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng cao hơn.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh của kinh tế du lịch mang tính thời vụ là chủ
yếu.
Xuất phát từ đặc thù của KTDL mà thể hiện rõ nét tính thời vụ trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tính thời vụ trong du lịch tồn tại bởi tác động của tập hợp nhiều nhân tố đa dạng (về bản chất và hướng ảnh hưởng). Đó là các nhân tố tự nhiên, nhân tố kinh tế - xã hội, nhân tố tổ chức, kỹ thuật, nhân tố tâm lý…Một số các nhân tố tác động chủ yếu đến cung du lịch, một số khác tác động chủ yếu lên cầu du lịch, có nhân tố lại tác động lên cả cung và cầu du lịch và thông qua đó gây lên tính thời vụ trong hoạt động KDDL. Tính thời vụ đó đã gây ra những tác động nhất định đến hoạt động KDDL. Vì vậy, nghiên cứu tính thời vụ của du lịch luôn là một trong những vấn đề trọng tâm của các nhà khoa học và các nhà kinh doanh thuộc lĩnh vực này.
1.2.2. Phát triển kinh tế du lịch
1.2.2.1. Khái niệm phát triển kinh tế du lịch
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành và phát triển từ lâu, KTDL đã và đang được nhiều nước quan tâm đầu tư phát triển, nhưng để xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh về phát triển kinh tế du lịch là vấn đề khó, cần phải có những luận cứ xác thực. Bởi vì, trong lĩnh vực phát triển của mình KTDL phụ thuộc rất nhiều yếu tố, ngoài việc chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế nói chung, do đặc thù của ngành nó còn có cơ chế vận hành riêng.
Trên thực tế phát triển KTDL ở nhiều nước không những đem lại lợi ích kinh tế, mà còn cả lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh quốc gia…Ở mỗi quốc gia, dân tộc có tính đặc thù riêng, phụ thuộc vào trình độ phát triển LLSX, mục đích tính chất của quan hệ sản xuất và quan niệm hay cơ chế, chính sách, quy hoạch chiến lược phát triển, chế độ chính trị, xã hội của mỗi nước, cho nên trong nghiên cứu tất yếu sẽ có những lý giải khác nhau. Hiện nay, chưa có một khái niệm chính thống nào về phát triển KTDL.
Vấn đề mang tính nguyên tắc xuyên suốt là để phát triển KTDL có hiệu quả, bền vững cần phải nhận thức được mối quan hệ gắn bó giữa tài nguyên du lịch với môi trường, xã hội, quốc phòng – an ninh trong cả quá trình. Cho nên, nghiên cứu
phát triển KTDL và đưa ra định nghĩa về nó phải nhìn ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng phải có tính tổng hợp và có hệ thống. Thể hiện những mặt cơ bản sau đây:
Thứ nhất, từ góc độ kinh tế: Muốn phát triển kinh tế bền vững cần phải khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, phải ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ để tăng năng suất lao động, tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, mở rộng quy mô và năng lực sản xuất…Phát triển KTDL cũng phải tuân theo nguyên tắc như vậy. Nhưng KTDL có những mặt mang tính đặc thù là khai thác các tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn cho nên phải luôn luôn chú trọng đến yếu tố hợp lý, an toàn, hiệu quả. Tùy thuộc vào từng loại hình du lịch để ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ phục vụ kinh doanh du lịch trên các mặt như mở rộng các loại hình dịch vụ, quy mô, trình độ để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận…Trên cơ sở đó mới có khả năng bù đắp những chi phí và tiếp tục mở rộng sản xuất cho giai đoạn tiếp sau. Đối với những sản phẩm được chế tạo từ nguồn gốc tự nhiên, thì vấn đề chủ yếu là xét xem tài nguyên du lịch tự nhiên đó có khả năng tái tạo hay không. Nếu không thì phải tiến hành nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm có khả năng thay thế. Muốn vậy phải cộng thêm vào giá thành sản phẩm làm từ tài tài nguyên không tái tạo một loại chi phí khác đủ để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm thay thế. Đối với tài nguyên đu lịch nhân văn phải có chiến lược quy hoạch, giữ gìn, đầu tư, bảo tồn, tôn tạo, phát huy phát triển, tuyền truyền, quảng bá rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân trong nước, cho du khách nước ngoài khi đến nước ta. Dưới góc độ này phải đảm bảo sự tăng trưởng bền vững, phát triển, hiệu quả và ổn định. Bền vững về kinh tế trong trường hợp này là “sự phát triển ổn định và lâu dài” của KTDL, tạo ra nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế của xã hội và đem lại lợi ích cho cộng đồng, đặc biệt là cho người dân địa phương nơi có tài nguyên du lịch. Khi mức sống của người dân địa phương được cải thiện nhờ du lịch, họ sẽ có động cơ bảo vệ nguồn thu nhập này bằng cách bảo vệ tài nguyên và môi trường, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống, tìm mọi phương cách để thu hút du khách đến với họ. Chia sẻ lợi ích du lịch cũng là phương pháp tích cực trong
công cuộc xóa đói, giảm nghèo, đem lại cơ hội nâng cao mức sống cho người dân địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế ở những vùng còn khó khăn.
Thứ hai, từ góc độ môi trường: Tuân theo quy luật phát triển chung, sự phát triển KTDL phải giải đáp được bài toán do môi trường đặt ra. Trong bất kỳ phương án quy hoạch phát triển nào theo hướng bền vững cũng đều phải tính toán kỹ mối tác động qua lại giữ con người và thiên nhiên sao cho sự phát triển KTDL không làm suy thoái hay hủy diệt môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn ô nhiễm. Điều đó đồng nghĩa với việc giữ gìn và phát triển được tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn, việc sử dụng các tài nguyên không vượt quá khả năng tự phục hồi của nó, sao cho đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện tại song không làm suy yếu khả năng tái tạo trong tương lai để đáp ứng được nhu cầu của thế hệ mai sau.
Thứ ba, từ góc độ xã hội: Sự phát triển KTDL phải đi đôi với sự phát triển xã hội, nghĩa là không ngừng nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người trong suốt quá trình phát triển. Đó cũng chính là sự phát triển tự sinh do chính xã hội ấy chủ động thực hiện, chứ không phải là một sự phát triển ngoại sinh, sống nhờ hoàn toàn vào nguồn lực từ bên ngoài, muốn vậy phải thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trong suốt quá trình phát triển, coi phát triển KTDL là công cụ xóa đói giảm nghèo trong những lĩnh vực phù hợp. Thường xuyên xây dựng thể chế tốt và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Đối với phát triển KTDL yếu tố này cần phải thường xuyên coi trọng bởi vì nhu cầu hưởng thụ các loại hình sản phẩm du lịch của con người là vô tận, du lịch được xã hội hóa thì lại càng đòi hỏi có nhiều loại hình kinh doanh du lịch phù hợp với mọi đối tượng tiêu dùng trong xã hội. Muốn tạo ra năng suất cao cho sản xuất thì Nhà nước cần phải thể hiện được trình độ quản lý và điều hành, đưa ra và triển khai những chủ trương, chính sách phát triển phù hợp, có cơ chế hoạt động thông thoáng đồng bộ, mở đường cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.
Thứ tư, từ góc độ quốc phòng – an ninh: Sự phát triển KTDL ổn định, bền vững cần thiết phải được đặt trong sự bảo đảm của nền quốc phòng đủ mạnh. Phải
nhìn thấy được vai trò của quốc phòng an ninh đối với phát triển KTDL, vai trò của quân đội và công an trong phòng, tránh các hiện tượng phá hoại do thiên tai gây ra, cứu nạn, cứu hộ, giải quyết hậu quả của các dịch bệnh, thiên tai, hỗ trợ khách du lịch và các nhà đầu tư du lịch, tạo tâm lý yên tâm, thoải mái thưởng ngoạn cho du khách…Ngược lại, phát triển KTDL bền vững sẽ góp phần củng cố tăng cường nền quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh hơn.
Thứ năm, từ góc độ văn hóa: Quá trình khai thác, đáp ứng các nhu cầu phát triển du lịch hiện tại không làm tổn hại, suy thoái các giá trị văn hóa truyền thống đã có và để lại hậu quả xấu cho các thế hệ tiếp theo. Các điểm du lịch có sự kết hợp giữa cảnh đẹp thiên nhiên và nền văn hóa truyền thống gây ấn tượng mạnh và độc đáo có sức hấp dẫn hơn đối với du khách. Du khách muốn được xem và hưởng thụ những giá trị văn hóa đích thực, sống động trong cuộc sống hằng ngày của người dân. Điều này hấp dẫn hơn nhiều so với những gì tái tạo lại trong một viện bảo tàng, một cuộc triểm lãm hoặc trình diễn. Như vây, nếu các giá trị văn hóa bị hủy hoại, bị biến đổi hoặc chỉ còn tồn tại dưới dạng mô phỏng thì sẽ không còn khả năng hấp dẫn du khách, sức thuyết phục và cuốn hút du khách sẽ bị giảm sút đi nhiều.
Như vậy, phát triển KTDL bền vững, ổn định, hiệu quả là một quá trình phát triển cân đối, sự kết hợp đồng bộ giữa các mặt: Tăng trưởng kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, quốc phòng – an ninh…không được xem nhẹ mặt nào, các mặt trong tổng thể đó luôn có mối quan hệ qua lại, gắn bó, hỗ trợ, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy cùng nhau phát triển, hoặc có khi kìm hãm nhau, nếu sự kết hợp đó không phù hợp, khoa học.
Từ những vấn đề lý luận và nhận thức trên có thể hiểu: “Phát triển kinh tế du lịch là mở rộng quy mô và năng lực sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực nhằm nâng cao số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ du lịch để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, bảo vệ môi trường, thúc đẩy phân công lao động, bảo tồn và làm phong phú thêm các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã định”. [22, tr.29]
1.2.2.2. Điều kiện để phát triển kinh tế du lịch
Muốn đầu tư để phát triển các loại hình KDDL có hiệu quả, cần thiết phải có những yếu tố khách quan, chủ quan, nguồn lực nhất định mới có thể duy trì hoạt động lâu bền và phát triển, bởi nó trực tiếp quyết định đến việc sản xuất các loại sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu cho du khách của một cơ sở, một vùng hay của một quốc gia. Bao gồm những điều kiện cơ bản như: tiềm năng du lịch; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh du lịch và cơ sở hạ tầng của điểm, khu du lịch; điều kiện kinh tế; yếu tố dân cư và lao động; nhân tố quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội…Biểu hiện cụ thể:
Một là, tài nguyên du lịch: được coi là điều kiện cần để phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch có thể do thiên nhiên tạo ra, có thể do con người tạo ra. Vì vậy, tài nguyên du lịch được phân ra làm hai nhóm: Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch tự nhiên luôn luôn gắn liền với các điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn luôn luôn gắn liền các điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội…và chúng đồng thời được khai thác để đáp ứng nhu cầu cho du khách và chủ thể KDDL.
Các thành phần tự nhiên tạo nên tài nguyên du lịch tự nhiên thường là vị trí địa lý, địa hình (các vùng núi có phong cảnh đẹp, các hang động, các bãi biển, các di tích tự nhiên), khí hậu (tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khỏe con người, phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng; phục vụ cho việc triển khai các hoạt động du lịch), thủy văn (bề mặt nước và cá bãi nông ven bờ, các điểm nước khoáng và suối nóng), sinh vật (các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu di tích lịch sử, văn hóa, môi trường; một số hệ sinh thái đặc biệt tiêu biểu cho từng vùng như nhiệt đới, ôn đới, hàn đới…).
Tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên du lịch do con người sáng tạo ra. Toàn bộ những sản phẩm có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con người sáng tạo ra đều được coi là những sản phẩm văn hóa. Như vậy, tài nguyên du lịch nhân văn cũng được hiểu là những tài nguyên di sản văn hóa. Tuy nhiên, không phải sản phẩm văn hóa nào cũng đều là những tài nguyên du lịch nhân văn mà chỉ
những sản phẩm văn hóa có giá trị phục vụ cho du lịch thì mới được coi là tài nguyên du lịch nhân văn. Thông qua những hoạt động du lịch dựa trên việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn, du khách có thể hiểu được những đặc trưng cơ bản về văn hóa của dân tộc, địa phương nơi mình đến. Các tài nguyên du lịch nhân văn có những đặc tính như: mang tính phổ biến, có tính truyền đạt nhận thức nhiều hơn là hưởng thụ, giải trí. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các dạng sau đây: Các di tích lịch sử văn hóa, những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng có giá trị văn hóa khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa – xã hội. Theo đó bao gồm: Các di sản văn hóa thế giới; các di tích lịch sử văn hóa thắng cảnh cấp quốc gia và địa phương (các di tích lịch sử; các di tích khảo cổ học, các di tích văn hóa nghệ thuật; các danh lam thắng cảnh); các lễ hội (phần lễ, phần hội); nghề và làng nghề thủ công truyền thống; các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học; các đối tượng văn hóa, thể thao hay những hoạt động mang tính sự kiện; các giá trị về văn hóa lịch sử có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một điểm, một vùng hoặc một đất nước.
Hai là, các điều kiện về kỹ thuật:
Các điều kiện về kỹ thuật ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch trước tiên là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KDDL và sau đó là cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KDDL bao gồm toàn bộ nhà cửa và phương tiện kỹ thuật giúp cho việc phục vụ thỏa mãn các nhu cầu của du khách như: cơ sở lưu trú, nhà hàng, khách sạn, phương tiện giao thông vận tải, các khu nhà giải trí, cửa hàng, công viên, đường sá, hệ thống thoát nước, mạng lưới điện trong khu vực và cơ sở kinh doanh của du lịch. Ngoài ra, cơ sở vật chất kỹ thuật KDDL còn bao gồm tất cả những công trình mà tổ chức du lịch xây dựng bằng vốn đầu tư của chính mình như rạp chiếu phim, sân vận động thể thao…Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KDDL có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ các sản