tượng khách ở mọi lứa tuổi, trình độ, thu nhập, những khách đi tour lẻ hoặc ghép tour.
+ Khách du lịch với mục đích thương mại: quan tâm đến phân khúc khách từ 30-55 tuổi, có thu nhập từ trung bình trở lên, những khách đi tour tự túc không thông qua các đơn vị lữ hành.
+ Khách du lịch biển đảo: là dòng khách chủ lực, với số lượng ngày càng lớn, tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lượng khách du lịch tới ĐBSCL và nguồn khách hàng có thu nhập từ cao đến rất cao nên chi tiêu cho du lịch rất lớn, hướng tới thị trường cao cấp với các sản phẩm du lịch biển đảo của Phú Quốc - Hà Tiên.
Để du lịch vùng ĐBSCL đạt tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai cần có kế hoạch cụ thể trong việc xây dựng sản phẩm có sự kết hợp chặt chẽ giữa tiềm năng sẵn có và nhu cầu thị trường, xác định thị trường mục tiêu cho từng thời. Có các giải pháp cụ thể với từng nhóm đối tượng, từng phân khúc thị trường cụ thể.Nâng cao chất lượng, giá trị và giá bán của sản phẩm du lịch, nhằm từng bước khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về giá hiện nay của các điểm đến trong Vùng.
Về xúc tiến quảng bá du lịch tại vùng ĐBSCL cần chuyên nghiệp hóa các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch, trọng tâm của chiến lược quảng bá tập trung vào các thị trường mục tiêu và các sản phẩm du lịch tiêu biểu gắn liền với thương hiệu du lịch của vùng kết hợp với quảng bá hình ảnh du lịch quốc gia.
Đẩy mạnh quảng bá “Du lịch Mekong” trong đó có ĐBSCL như một điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch khu vực và thế giới. Các kế hoạch, chương trình quảng bá xúc tiến du lịch trong và ngoài nước được hoạch định cụ thể, rõ ràng theo từng giai đoạn, thời kỳ với nhiều hình thức khác nhau và thay đổi linh hoạt, gắn liền với xúc tiến thương mại – đầu tư – ngoại giao và văn hóa nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất.
Trong thời gian tới cần xây dựng hình ảnh du lịch ĐBSCL thống nhất, hấp dẫn để giới thiệu đến du khách trong và ngoài nước.Thành lập và triển khai hoạt động
các trung tâm cung cấp thông tin du lịch, tổng đài cung cấp thông tin (call center) về du lịch vùng ĐBSCL.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Về Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Vùng Đbscl Trong Hội Nhập Quốc Tế
- Xu Hướng Phát Triển Du Lịch Của Việt Nam Trong Hội Nhập Quốc Tế
- Chính Sách Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Vùng Đbscl Trong Hội Nhập Quốc Tế
- Chính Sách Và Giải Pháp Bảo Vệ Môi Trường, Sinh Thái Trong Phát Triển Du Lịch Vùng Đbscl
- Kiến Nghị Với Chính Phủ, Các Bộ, Ngành Liên Quan Và Chính Quyền Địa Phương Trong Vùng Về Chính Sách Phát Triển Du Lịch Đbscl.
- Phát triển du lịch Đồng Bằng Sông Cửu Long trong hội nhập quốc tế - 23
Xem toàn bộ 219 trang tài liệu này.
Các địa phương cùng các ngành trong Vùng cần tăng cường phối hợp để xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch trong đó có thương hiệu của doanh nghiệp và sản phẩm du lịch của Vùng để tạo nên vị thế cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế, phát triển thương hiệu du lịch của Vùng gắn liền với thương hiệu du lịch quốc gia, đảm bảo tính đa dạng, thống nhất nhưng không trùng lắp.
Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về du lịch cho người dân trong Vùng, từ đó góp phần cải thiện, nâng cao hình ảnh du lịch vùng ĐBSCL.Tổ chức các hoạt động đánh giá hiệu quả công tác quảng bá, xúc tiến.Tăng cường phối hợp với các quốc gia trọng điểm vùng sông Mekong mở rộng, với thành phố Hồ Chí Minh, với các hãng hàng không, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài trong công tác quảng bá, xúc tiến các hoạt động du lịch.
Đa dạng hóa các loại sách, báo, ấn phẩm tuyên truyền về du lịch của Vùng với nhiều hình thức và nội dung phong phú, thường xuyên bổ sung cung cấp thông tin mới, phát hành rộng rãi tại các khu vực công cộng để du khách có thể dễ dàng nhận biết. Song song đó, cần học hỏi kinh nghiệm của các vùng lân cận về việc quảng cáo và tiếp thị các điểm du lịch và cần cập nhật các hình ảnh về các điểm du lịch trên mạng xã hội cho du khách có thể tham khảo và lựa chọn các điểm du lịch trong vùng ĐBSCL.
Việc xây dựng chiến lược phát triển thị trường và xúc tiến quảng bá thương hiệu du lịch ĐBSCL cần phải được thực hiện song song, nếu không có sự phối hợp chặt chẽ với nhau sẽ dẫn đến việc đi sai hướng và không mang lại hiệu quả.
5.3.3 Chính sách và giải pháp đầu tư và thu hút vốn đầu tư cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL.
Chính sách
- Quy hoạch phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch giữa các địa phương trong Vùng, phát triển hệ thống giao thông kết nối với TP. HCM và các Vùng khác của cả nước.
- Phát triển đồng bộ cả hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không phục vụ cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL
- Có cơ chế ưu đãi cho nhà đầu tư vào du lịch vùng ĐBSCL để thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nước.
- Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn của Nhà nước, vốn FDI, vốn ODA đầu tư vào du lịch vùng ĐBSCL, chống lãng phí và thất thoát vốn.
Giải pháp thực hiện
Một trong những điểm yếu và thách thức lớn cho phát triển du lịch của ĐBSCL đó là hệ thống cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, các sản phẩm du lịch cần phải chú trọng. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần tập trung đẩy mạnh phát triển một cách đồng bộ cơ sở hạ tầng của Vùng, để từ đó có thể thu hút đầu tư cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch, cần xây dựng quy hoạch, đẩy mạnh đầu tư mạng lưới giao thông đường bộ, nâng cao chất lượng hệ thống bưu chính viễn thông, năng lượng, cấp thoát nước, môi trường và các lĩnh vực liên quan đảm bảo đồng bộ để phục vụ yêu cầu phát triển du lịch. Bên cạnh đó xây dựng, quy hoạch không gian công cộng của vùng ĐBSCL gắn với chiến lược phát triển du lịch của Vùng.
Đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước (Trung ương và địa phương) theo hướng đồng bộ, có trọng tâm, trong điểm làm cơ sở kích thích thu hút các nguồn vốn đầu tư khác vào các dự án du lịch vùng ĐBSCL. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương chủ yếu dành cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng (đường giao thông, cấp điện, nước, xử lý môi trường,…). Tại các khu, điểm du lịch ở địa phương sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh, huyện. Ưu tiên đầu tư nguồn vốn cho các điểm du lịch có tiềm năng du lịch nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật chưa phát triển. Xây dựng các cơ chế chính sách thông thoáng, phù hợp pháp luật Việt Nam để thu hút và tạo ra các nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch của huyện. Thực hiện xã hội hóa trong công tác đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch, tạo cơ
chế chính sách thuận lợi để thu hút vốn trong dân để đầu tư bảo tồn, tôn tạo các giá trị tài nguyên, môi trường cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL.
- Các địa phương cần có kế hoạch cụ thể trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch trên địa bàn mình: Các tỉnh, thành vùng ĐBSCL cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có quy hoạch du lịch của các địa phương; cụ thể hoá thành các chương trình, dự án, kế hoạch đầu tư, phương thức huy động vốn, sắp xếp thứ tự ưu tiên làm căn cứ cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển, nhằm phát huy lợi thế của ĐBSCL. Ưu tiên làm rõ các dự án thuộc khu du lịch quốc gia, các dự án thuộc địa bàn trọng điểm đã có thương hiệu nổi trội nhằm tăng khả năng cạnh tranh với khu vực và quốc tế. Định hướng đầu tư các khu du lịch cao cấp, chú trọng đến việc phát triển các cơ sở lưu trú hiện đại. Coi trọng việc đầu tư xây dựng các tuyến điểm du lịch quan trọng, các khu vui chơi giải trí hiện đại phục vụ cho nhu cầu của du khách.
- Đẩy nhanh đầu tư mạng lưới giao thông đường bộ: Trong đó chú trọng các quốc lộ là những tuyến giao thông có ý nghĩa kinh tế với quốc phòng, an ninh và toàn vùng như tuyến N1 chạy dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia, quốc lộ 62, quốc lộ 53, quốc lộ 91 và các đường cao tốc quan trọng trong vùng. Cải thiện và chú trọng đầu tư hơn nữa mạng lưới giao thông đường thủy vì đây cũng là phương thức vận chuyển quan trọng của Vùng. Mở rộng các luồng vận chuyển và nâng cấp các cảng biển để phục vụ cho quá trình giao thương cũng như phục vụ cho các tuyến du lịch sông nước. Xây dựng mới, nâng cấp hệ thống cảng hàng không, sân bay nhằm tăng tần suất bay nội địa, quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và phát triển du lịch. Trong đó tập trung xây dựng hoàn chỉnh càng hàng không quốc tế Phú Quốc và đường giao thông từ cảng vào thị trấn.
- Nâng cao chất lượng hệ thống bưu chính viễn thông, toàn Vùng: Phát triển các dịch vụ mới, đặc biệt tại các vùng nông thôn, các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo. Chú trọng phát triển các dịch vụ bưu chính công ích có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống dân cư của ĐBSCL và phục vụ cho phát triển du lịch của Vùng.
- Đầu tư vào hệ thống hạ tầng y tế, văn hóa, giáo dục: Đầu tư nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn các tỉnh, thành trong Vùng, tăng cường sử dụng những thiết bị y tế hiện đại cũng như đào tạo đội ngũ các y bác sĩ giỏi cho vùng ĐBSCL nhằm đảm bảo chăm sóc tốt sức khỏe cho người dân địa phương và khách du lịch. Đầu tư nâng cấp các cơ sở giáo dục, đào tạo đủ điều kiện, phục vụ cho du khách, đầu tư vào các hệ thống bảo tàng, nhà hát để đáp ứng cho việc phát triển du lịch trong thời hội nhập quốc tế.
- Đầu tư phát triển các khu du lịch quốc gia, đô thị du lịch tại ĐBSCL. Đối với các địa phương vùng sâu vùng xa nhưng có tiềm năng du lịch sẽ ưu tiên đầu tư phát triển du lịch để cải thiện thu nhập cho người dân.
- Ưu tiên đầu tư phát triển loại hình du lịch sinh thái, các loại hình du lịch gắn với thiên nhiên và có lợi cho môi trường để hướng đến phát triển du lịch bền vững vùng ĐBSCL. Xã hội hóa ngành du lịch để thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước nhằm:
+ Để phát triển du lịch ĐBSCL trong giai đoạn 2016-2020 cần có nguồn vốn đầu tư khoảng 970 triệu USD, như vậy, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển du lịch của Vùng rất lớn, đòi hỏi phải huy động nhiều nguồn vốn khác nhau để hoàn thiện kết cấu hạ tầng du lịch, đa dạng hoá các sản phẩm du lịch tạo cho du lịch của Vùng phát huy được các lợi thế sẵn có của mình. Đầu tư phát triển du lịch của Vùng trong thời gian tới cần được tập trung ưu tiên cho các địa phương có khu du lịch quốc gia, các khu vực có tiềm năng phát triển thành khu du lịch quốc gia đến năm 2030. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vào các khu du lịch, điểm du lịch cần phải được tiến hành đồng bộ nhằm hình thành được các tuyến du lịch.
+ Việc đầu tư nhằm mục tiêu chung là phát triển du lịch dựa trên thế mạnh của Vùng, tạo ra các sản phẩm du lịch đặc thù độc đáo và mở ra khả năng kết nối các sản phẩm du lịch trong Vùng, liên vùng, liên quốc gia tạo ra những chương trình du lịch hấp dẫn. Đẩy mạnh xã hội hóa phát triển du lịch tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành du lịch, kêu gọi đầu tư xây dựng các dự án về du lịch có quy mô và chất lượng quốc tế. Đầu tư khai thác dịch vụ vận chuyển, nâng cao chất
lượng dịch vụ nhà hàng, khách sạn,... để xây dựng thương hiệu du lịch Đồng bằng sông Cửu Long, đầu tư cho phát triển du lịch ĐBSCL trong hội nhập quốc tế cần chú ý một số điểm cụ thể sau:
- Không đầu tư dàn trải mà tập trung đầu tư vào những tuyến điểm quan trọng trong vùng, tận dụng cách triệt để và có hiệu quả đối với nguồn vốn được hỗ trợ từ các nhà đầu tư để phát triển các tuyến, điểm du lịch có năng lực cạnh tranh trong khu vực và thế giới.
- Lập chương trình cụ thể về vận động xã hội hóa đầu tư từ nguồn vốn trong nước, vốn ODA và FDI đầu tư vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng du lịch cho vùng ĐBSCL: Thu hút được nguồn vốn đầu tư trong nước, vốn ODA, và FDI vào cơ sở hạ tầng du lịch của Vùng, đưa ra thông điệp rõ ràng về những lĩnh vực thu hút đầu tư cùng những cam kết về môi trường đầu tư thuận lợi, ổn định, minh bạch cho các nhà đàu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực du lịch của vùng ĐBSCL. Để nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận quỹ đất cho xây dựng khu du lịch, trong quy hoạch xây dựng và sử dụng đất chỉ rõ những khu vực bố trí xây dựng khu du lịch hoặc xây dựng khách sạn. Phương án quy hoạch sau khi được duyệt cần sớm được công bố công khai các khu vực dành cho phát triển các khu du lịch trên các trang thông tin điện tử để kêu gọi đầu tư vào du lịch của vùng ĐBSCL.
- Hoàn thiện công tác quản lý đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch: Theo hướng phát huy trách nhiệm của cơ quan nhà nước về du lịch ở trung ương và địa phương ngay từ khâu lập dự án, thẩm định, phân bổ vốn và suốt quá trình quản lý, thực hiện dự án. Trên cơ sở thống nhất giữa Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và địa phương việc mục tiêu phát triển du lịch, việc giao kế hoạch hàng năm về đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch cần có danh mục dự án hướng dẫn kèm theo.
- Có cơ chế, chính sách ưu đãi đối với đầu tư phát triển các khu du lịch: Các khu du lịch thường có đặc thù là thu hồi vốn rất chậm, đối với các khu du lịch hình thành ở các vùng chưa được khai phá, chưa có tiếng tăm về hoạt động du lịch, dịch vụ, chưa được đầu tư về cơ sở hạ tầng thì tình trạng rủi ro là rất cao, nhà đầu tư phải đầu tư từ đầu với số vốn lớn, phải tạo dựng thương hiệu, phải quảng bá,... để thu hút
khách du lịch, chính vì vậy những nhà đầu tư đi tiên phong thường phải chịu rủi ro hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ giải phóng mặt bằng, miễn giảm tiền thuế đất, thuê đất đối với các khu du lịch tại các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch của vùng ĐBSCL. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành vùng ĐBSCL cần tiến hành khảo sát nghiên cứu tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, trên địa bàn tỉnh để ban hành các chính sách ưu đãi về đất đai cho phù hợp với điều kiện của địa phương, theo quan điểm tạo điều kiện ưu đãi tốt nhất nhằm thu hút đầu tư vào các khu du lịch.
- Đầu tư vào hoạt động du lịch gắn với sinh thái và bảo vệ môi trường: Khai thác du lịch gắn với bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, khai thác du lịch gắn với bảo tồn và phát triển các làng nghề. Có cơ chế chuyển đổi cơ cấu các loại đất sang đất phát triển các khu du lịch, cần nghiên cứu để phân loại các loại đất phục vụ hoạt động du lịch theo hướng phục vụ trực tiếp như đất sản xuất, kinh doanh và phục vụ gián tiếp hoặc kết hợp như: rừng cây, mặt nước, danh thắng, di tích,...để có cơ chế chuyển đổi cho phù hợp, đồng thời chính sách giao đất, cho thuê đất cũng cần linh hoạt để nhà đầu tư có thể chấp nhận được, mà vẫn bảo vệ, bảo tồn được các di tích, danh thắng và phát triển rừng, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Tập trung thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng - nhất là hệ thống đường giao thông kết nối các điểm du lịch, các kênh rạch trên các tuyến tham quan đường sông, hệ thống bến thuyền tại các đầu mối đưa đón khách du lịch tham quan đường sông trên tuyến sông Tiền, sông Hậu; hệ thống thông tin về du lịch sinh thái các các vườn quốc gia, khu bảo tồn để đảm bảo thông tin xúc tiến và bảo vệ môi trường; xây dựng, nâng cấp trang web về hệ thống sản phẩm du lịch đặc thù vùng ĐBSCL.
5.3.4 Chính sách và giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL
Chính sách
- Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của Vùng phải đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
- Phối hợp, đặt hàng với các cơ sở đào tạo về du lịch trong Vùng và cơ sở tại TP. HCM để đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch của Vùng ĐBSCL.
- Thường xuyên mở các lớp tập huấn, mời chuyên gia trong và ngoài nước tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ nguồn nhân lực phục vụ du lịch của Vùng.
Giải pháp thực hiện
Trong kết quả khảo sát, yếu tố môi trường xã hội trong đó có thái độ của nhân viên phục vụ và tính chuyên nghiệp của nhân viên phục vụ là chỉ báo có tác động không nhỏ đến du lịch ĐBSCL. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển nhân lực du lịch vùng ĐBSCL đảm bảo về chất lượng, số lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch và hội nhập quốc tế là điều hết sức cần thiết.
Trước hết, cần phát triển mạnh các cơ sở đào tạo về du lịch trong vùng từ cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị giảng dạy đến chất lượng giảng viên, giáo trình khung đào tạo du lịch gắn liền với điều kiện cụ thể của vùng ĐBSCL. Đa dạng hóa phương thức đào tạo, khuyến khích đào tạo tại chỗ, tự đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp. Phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng ĐBSCL một cách đồng bộ cả về số lượng, chất lượng và có hệ thống, đến năm 2020 nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các cấp quản lý, xây dựng lực lượng lao động trực tiếp của ngành du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, đảm bảo chất lượng về nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch trong giai đoạn mới và hội nhập quốc tế. Để làm được điều đó, cần phối hợp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài tỉnh: Trường Đại học Cần Thơ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Du lịch Sài Gòn,… tổ chức các hình thức đào tạo ngắn hạn và dài hạn, các lớp bồi dưỡng quản lý và nghiệp vụ du lịch cho các cấp quản lý và nhân viên. Bên cạnh đó, cần phát triển đội ngũ nhân viên tại chổ, nâng cao trình độ ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý và lao động trong ngành về kỹ năng nghề nghiệp và thái độ ứng xử, thái độ phục vụ kết hợp ứng dụng khoa