Ý Thức Trách Nhiệm Của Khách Du Lịch, Cơ Sở Kinh Doanh Du Lịch Và Cộng Đồng Dân Cư Địa Phương


lịch bền vững đòi hỏi phải được tổ chức hợp lý để có thể thực hiện tốt, đầy đủ các chức năng quản lý nhà nước nói chung nêu trên, đồng thời phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững trong mọi khâu của quy trình quản lý, mọi nội dung của quản lý. Bộ máy đó phải có khả năng xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch thực sự có tầm nhìn dài hạn; có năng lực kiến tạo chính sách và năng lực động viên, tạo môi trường thu hút và tổ chức sử dụng hợp lý, cân đối mọi nguồn lực để hướng sự phát triển của du lịch đạt đến các mục tiêu bền vững.

2.3.2. Ý thức trách nhiệm của khách du lịch, cơ sở kinh doanh du lịch và cộng đồng dân cư địa phương

- Khách du lịch

Khách du lịch là một chủ thể quan trọng trong các quan hệ du lịch, được mọi hoạt động quản lý, kinh doanh du lịch hướng đến. Bằng việc tiêu dùng và chi trả cho việc tiêu dùng sản phẩm du lịch, khách du lịch chính là người tạo nên thu nhập du lịch. Là một bên trong quan hệ cung - cầu du lịch, tổng hợp các nhu cầu của khách du lịch là yếu tố khách quan thúc đẩy hình thành và phát triển hệ thống kinh doanh, sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ du lịch, quản lý du lịch, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội cho hoạt động du lịch. Là người tiêu dùng các sản phẩm du lịch, trực tiếp tác động đến tài nguyên du lịch và tương tác với cộng đồng dân cư tại điểm đến, yếu tố trách nhiệm của khách du lịch có tác động, ảnh hưởng quan trọng đến phát triển du lịch bền vững. Chiều hướng tác động tùy thuộc vào mức độ trách nhiệm, thái độ và hành vi ứng xử của du khách với tài nguyên du lịch, với cộng đồng dân bản địa khi tiêu dùng sản phẩm du lịch.

- Cơ sở kinh doanh du lịch

Trong kinh doanh du lịch, các cơ sở kinh doanh khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch và các nguồn lực khác để tạo nên hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu của du khách và thu về lợi nhuận. Hoạt động của cơ sở kinh doanh du lịch, vì vậy, trực tiếp góp phần tạo nên doanh thu, giá trị tăng thêm của ngành du lịch, đồng thời cũng tác động trực tiếp đến tài nguyên du lịch, đến môi trường tự nhiên, xã hội cũng như đến cộng đồng dân cư nơi có hoạt động du lịch. Cơ sở kinh doanh có trách nhiệm sẽ có ý thức sử dụng hiệu quả, hợp lý tài nguyên và các nguồn lực du lịch khác để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế du lịch bền vững, chia sẻ lợi ích với cộng đồng, đóng góp cho giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo ở địa phương,


bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch. Ngược lại, nếu cơ sở kinh doanh du lịch thiếu ý thức trách nhiệm, các nguồn lực trong đó có tài nguyên du lịch có thể bị khai thác, sử dụng lãng phí hoặc quá mức cho mục tiêu lợi nhuận, lợi ích cộng đồng thường bị bỏ qua, công tác xử lý chất thải, bảo vệ môi trường bị xem nhẹ để tiết giảm chi phí, từ đó gây ảnh hưởng lớn đến phát triển du lịch bền vững.

- Cộng đồng địa phương

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.

Cộng đồng địa phương là bộ phận dân cư tham gia quan hệ du lịch ở điểm đến với nhiều hoạt động cụ thể: tham gia nguồn lao động tại cơ sở kinh doanh du lịch; trực tiếp kinh doanh một số dịch vụ, hàng hóa phục vụ du lịch hoặc góp phần tạo nên sản phẩm du lịch bằng bản sắc văn hóa và truyền thống sinh hoạt văn hóa của mình. Cộng đồng địa phương cũng là những người trực tiếp, thường xuyên tiếp xúc với tài nguyên du lịch. Do đó, ý thức trách nhiệm của cộng đồng địa phương có tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển du lịch bền vững, với chiều hướng và mức độ tác động tùy thuộc mức độ trách nhiệm của cộng đồng khi tham gia các hoạt động du lịch.

2.3.3. Tài nguyên du lịch

Phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Phú Thọ - 9

Tài nguyên du lịch bao gồm hai nhóm: Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.

Có nhiều quan niệm khác nhau về tài nguyên du lịch. Trong luận án này, tác giả tiếp cận vấn đề tài nguyên du lịch theo Luật Du lịch của Việt Nam năm 2005, trong đó điều 13 xác định:

Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch [63].

Tài nguyên du lịch là điều kiện, là yếu tố đầu vào quan trọng của hoạt động du lịch, đồng thời cũng là yếu tố tác động đến phát triển du lịch bền vững. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, mức độ đa dạng nhiều hay ít, vị trí và khả năng khai thác thuận lợi hay không thuận lợi của tài nguyên du lịch có tác động trực tiếp và rất lớn đến việc xác định định hướng, mục tiêu phát triển, lựa chọn sản phẩm du lịch đặc trưng,


xác định các giải pháp phát triển du lịch; đến hiệu quả kinh tế, xã hội và khả năng phát triển của du lịch theo hướng tương ứng.

2.3.4. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội, chính sách đối với phát triển du lịch và mức độ ổn định của môi trường pháp lý, chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng của quốc gia và địa phương

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, một địa phương có tác động rất lớn đến khả năng và xu hướng phát triển bền vững ngành du lịch của đất nước, địa phương đó. Kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương phát triển ở trình độ nào thì ngành du lịch sẽ có được cơ sở, tiền đề, nền tảng (bao gồm cả nền tảng về hạ tầng, cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính, nền tảng về văn hóa, trình độ tổ chức xã hội, trình độ dân trí) và môi trường, điều kiện cho sự phát triển của mình ở mức độ đó. Mặt khác, tùy theo trình độ và mức độ phát triển kinh tế - xã hội mà các mục tiêu, tiêu chí cụ thể của phát triển du lịch bền vững và tương quan giữa các mục tiêu, tiêu chí này cũng phải được mỗi quốc gia, địa phương cân nhắc cho phù hợp với điều kiện cụ thể ở từng giai đoạn phát triển của mình. Trình độ phát triển kinh tế

- xã hội của một quốc gia, địa phương cũng liên quan đến thu nhập và trình độ dân trí và từ đó tác động đến phát triển du lịch bền vững ở quốc gia, địa phương đó thông qua khả năng chi tiêu và ý thức của du khách, khả năng, năng lực tham gia vào hoạt động du lịch của cộng đồng địa phương và ý thức trách nhiệm của người dân địa phương trong việc góp phần bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch.

Quan điểm và chính sách của địa phương và quốc gia đối với ngành du lịch có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển du lịch bền vững. Môi trường pháp lý thông thoáng, môi trường chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng ổn định sẽ tạo tiền đề, điều kiện cho các hoạt động thu hút, đang dạng hóa nguồn lực đầu tư du lịch và tạo nên hình ảnh thân thiện, tin cậy và yên tâm cho sự lựa chọn của khách du lịch, thuận lợi cho sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động dụ lịch; từ đó tạo điều kiện thúc đẩy du lịch phát triển bền vững hơn.

2.3.5. Sự liên kết, hợp tác du lịch giữa các địa phương trong nước và quốc tế; liên kết, phối hợp giữa du lịch và các ngành, lĩnh vực liên quan

Liên kết, hợp tác sẽ tạo điều kiện, mở ra cơ hội cho việc trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng, các thành tựu khoa học công nghệ, nhân lên hiệu quả sử dụng tài nguyên hoặc xử lý phù hợp những khác biệt thậm chí là xung đột trong quan điểm


sử dụng tài nguyên cho phát triển du lịch giữa các quốc gia, địa phương có nguồn tài nguyên liên quan đến nhau, đa dạng hoá sản phẩm du lịch, kết nối nguồn khách, mở rộng thị trường… để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động du lịch của mỗi quốc gia, mỗi vùng và địa phương. Nếu không có sự liên kết, hợp tác thì hiệu quả và khả năng mở rộng phát triển du lịch bền vững sẽ bị hạn chế rất nhiều, nhất là trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng hiện nay.

Mức độ liên kết, phối hợp giữa các ngành liên quan với du lịch là yếu tố hết sức quan trọng, có tác động trực tiếp đến phát triển du lịch bền vững. Nếu không có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ thường xuyên giữa các ngành, lĩnh vực với du lịch, những xung đột trong quan điểm sử dụng tài nguyên, hạ tầng chung sẽ luôn tiềm ẩn nguy cơ phát sinh, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của mỗi ngành, lĩnh vực. Ngược lại, liên kết, phối hợp tốt sẽ tác động tích cực, giảm chi phí phát triển, giảm nguy cơ xung đột quan điểm phát triển, sự liên kết theo chuỗi còn tác động trực tiếp đến hiệu quả tăng trưởng của từng ngành, để mỗi ngành đều có sự phát triển bền vững hơn, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững chung của cả nền kinh tế.

2.3.6. Các yếu tố tác động khác

Các yếu tố khác như sự suy thoái và khả năng phục hồi kinh tế thế giới, nguy cơ suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu, tương quan chính trị giữa các quốc gia, vấn đề tôn giáo và sắc tộc, chủ nghĩa khủng bố…; các yếu tố tự nhiên bất thường như thiên tai, dịch bệnh… cũng có tác động, ảnh hưởng lớn đến sự khả năng và sự phát triển của du lịch bền vững theo hướng thuận lợi hay khó khăn tương ứng với những diễn biến của các yếu tố đó. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu toàn cầu diễn ra ngày càng nhanh, những yếu tố này ngày càng có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển du lịch bền vững và cần phải được tính toán đầy đủ khi xây dựng các mục tiêu, định hướng các giải pháp cụ thể cho phát triển du lịch bền vững ở cấp độ quốc gia cũng như mỗi địa phương.

2.4. KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG VÀ KHÔNG BỀN VỮNG

Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp với những đặc điểm khác biệt với những ngành kinh tế khác. Trong đó, đặc điểm nổi bật là sự phát triển của nó phụ thuộc rất đáng kể vào tài nguyên du lịch của địa phương. Do đó, việc nghiên cứu


kinh nghiệm của một tỉnh có điều kiện tương đồng để rút ra bài học kinh nghiệm cho tỉnh khác trong phát triển du lịch bền vững là rất khó. Bởi lẽ đó, trong luận án này tác giả lựa chọn nghiên cứu một số mô hình phát triển du lịch bền vững và không bền vững ở một số địa phương trong và ngoài nước để gạn lọc những yếu tố đáng quan tâm, rút ra những bài học kinh nghiệm cho phát triển du lịch bền vững ở địa phương cấp tỉnh trong đó có tỉnh Phú Thọ.

2.4.1. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững

- Phát triển du lịch ở đảo Nami (Hàn Quốc): Đảo Nami thuộc thành phố Chuncheon, Hàn Quốc. Hòn đảo này thực tế đã từng có nhiều thành công về mặt kinh tế trong hoạt động du lịch suốt hơn 20 năm. Tuy nhiên, do các yếu tố văn hóa và môi trường ít được chú trọng trong quá trình khai thác và tổ chức du lịch, đến năm 1990 môi trường du lịch trên đảo suy thoái nghiêm trọng, lượng khách theo đó cũng suy giảm nhanh chóng.

Năm 2002, Nami tiến hành cải tạo lại môi trường sinh thái và khôi phục hình ảnh du lịch của đảo với nhiều biện pháp cụ thể:

+ Phục hồi hệ sinh thái: Ban quản lý đảo đã tiến hành một loạt các hoạt động cải thiện môi trường sinh thái như xử lý việc chôn lấp rác thải bất hợp pháp; quy hoạch lại diện tích cây xanh, thả các thú tự nhiên bị nuôi nhốt để tái tạo lại môi trường sống tự nhiên vốn có của đảo. Tổ chức cho khách cũng như cộng đồng địa phương tham gia các hoạt động trồng cây, trồng rừng và gắn biển tên. Xây dựng trung tâm tái chế rác thải cho mục đích cải tạo môi trường. Quan trọng hơn, đảo đã thành công trong việc tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và đưa văn hóa tái chế trở thành biểu tượng được ghi nhận.

+ Phát triển văn hóa: Một chiến lược bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc đã được xây dựng và thực hiện. Nhiều khu vực, tòa nhà được chuyển đổi mục đích sử dụng để mở rộng không gian văn hóa và nghệ thuật, giúp du khách có cơ hội khám phá, trải nghiệm nghệ thuật dân gian truyền thống của địa phương.

+ Huy động sự tham gia của cộng đồng: Thu hút cộng đồng bản địa tham gia các hoạt động văn hóa, lễ hội, cung cấp hàng lưu niệm thủ công phục vụ du khách; chú trọng vai trò của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái.

+ Hợp tác, liên kết phát triển du lịch, tăng cường quảng bá: Tạo không gian để nhiều tổ chức quốc tế sử dụng cho các sự kiện thường xuyên như trại hè, sân chơi


văn hóa...; xây dựng và nỗ lực mở rộng mạng lưới liên kết quốc tế; tích cực quảng bá du lịch bằng nhiều hình thức như đăng cai sự kiện, hỗ trợ sản xuất các bộ phim ăn khách với bối cảnh trên đảo, thực hiện nhiều sáng kiến quảng bá độc đáo khác.

Những nỗ lực tái tạo lại môi trường du lịch đã đưa Nami trở lại vị trí vốn có của nó là một trong những điểm du lịch tiêu biểu của Hàn Quốc. Số khách du lịch gia tăng hàng năm và quan trọng hơn, các khảo sát của đảo cho thấy, hầu hết du khách đều hài lòng và mong muốn quay trở lại, cộng đồng địa phương cũng được chia sẻ lợi ích tích cực từ du lịch, môi trường sinh thái, văn hóa địa phương tiếp tục được bảo vệ bền vững [Tác giả tổng hợp từ các bài viết, bài nghiên cứu về du lịch Nami, Hàn Quốc - 49]

- Mô hình phát triển du lịch sinh thái núi Bà Nà (Đà Nẵng): Núi Bà Nà là một trong những ngọn núi đẹp nhất Đà Nẵng. Núi cao 1.482m so với mặt biển, có hệ động thực vật đa dạng, độc đáo với hơn 543 loài thực vật, 256 loài động vật có xương sống. Trong số đó, có nhiều loài động thực vật quý hiếm như trầm hương, sến mặt, trĩ sao, vượn má nhung… Khu du lịch Bà Nà được người Pháp xây dựng từ những năm đầu của thế kỷ XX với hàng trăm ngôi biệt thự, lâu đài rất đẹp nhưng qua thời gian và chiến tranh, một số biệt thự đã xuống cấp, bị tàn phá. Bước vào thời kỳ đổi mới, ý thức được giá trị của hệ sinh thái núi Bà Nà, thành phố Đà Nẵng đã xây dựng, hoàn thiện quy hoạch khu du lịch sinh thái trên đỉnh núi, với quan điểm phát triển ở đây các loại hình du lịch thân thiện với thiên nhiên. Quy hoạch được tổ chức thực hiện nghiêm túc, thu hút được các nhà đầu tư chiến lược, có năng lực tài chính, quản trị, có chiến lược phát triển du lịch bền vững. Các công trình lưu trú, nghỉ dưỡng, hệ thống giao thông đường bộ, cáp treo đều được xây dựng theo hướng dựa vào thiên nhiên, giảm thiểu tác động tiêu cực đến thiên nhiên và môi trường. Đến khu du lịch sinh thái Bà Nà, du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành, hệ sinh thái được khoanh vùng, giữ gìn và bảo vệ nghiêm ngặt. Các sản phẩm du lịch được khai thác là du lịch sinh thái, dã ngoại, tham quan, nghiên cứu... [Tác giả tổng hợp từ các ấn phẩm, bài viết về du lịch Bà Nà - 48; 70]

- Phát triển du lịch văn hóa di sản ở Huế: Huế là cố đô duy nhất ở Việt Nam còn bảo lưu được khá nguyên vẹn tổng thể kiến trúc nghệ thuật Cung đình. Với một kho tàng di sản văn hóa phong phú, có giá trị và tầm vóc quốc tế, trong đó có 2 di sản văn hóa thế giới, Huế là điểm đến quan trọng trong các hành trình du lịch di sản


của du khách. Ngành du lịch Thừa Thiên - Huế đã có những giải pháp thiết thực, mang tính lâu dài để phát huy bền vững tiềm năng, lợi thế tài nguyên cho phát triển du lịch. Trong đó, công tác bảo tồn di sản được thực hiện rất tích cực, thường xuyên, có tính chiến lược với nhiều giải pháp cụ thể như đầu tư trùng tu, tôn tạo di tích, bảo tồn và vinh danh văn hóa phi vật thể, tôn tạo cảnh quan môi trường quanh các khu di sản, hợp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học bảo tồn và đạo tạo nguồn nhân lực. Duy trì mối quan hệ tương tác cùng phát triển lâu bền giữa hoạt động du lịch và công tác bảo tồn di sản: Bảo vệ di sản truyền thống để thu hút và phục vụ phát triển du lịch văn hóa đồng thời thông qua hoạt động du lịch để giới thiệu, phát huy giá trị di sản và sử dụng nguồn thu từ du lịch trực tiếp đầu tư trở lại cho bảo tồn di sản. Công tác bảo vệ môi trường du lịch nhìn chung được chính quyền địa phương và ngành du lịch rất quan tâm trong quá trình triển khai các dự án đầu tư, các hoạt động du lịch. Ngành du lịch cũng đã có nhiều giải pháp xây dựng các mô hình du lịch cộng đồng như du lịch làng nghề, du lịch nhà vườn..., xây dựng nhiều cơ chế, chính sách khá hiệu quả thu hút nguồn lực xã hội, huy động sự tham gia của cộng đồng, lắng nghe ý kiến cộng đồng và các ý kiến phản biện trước khi quyết định đầu tư, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư, khách du lịch, cộng đồng trong phát triển du lịch [Tác giả tổng hợp từ các bài viết, bài giới thiệu về du lịch Huế - 39]

2.4.2. Một số trường hợp phát triển du lịch không bền vững cần nghiên cứu, rút kinh nghiệm

- Phát triển du lịch ở thành phố Venice (Ý) - Sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế song tiềm ẩn nguy cơ suy thoái tài nguyên du lịch và môi trường: Venice là thủ phủ của vùng Veneto và của tỉnh Venezia ở Đông Bắc nước Ý. Thành phố có bề dày lịch sử, văn hóa khá lâu đời và nổi tiếng không chỉ với các công trình kiến trúc hoành tráng, các kiệt tác nghệ thuật mang dấu ấn văn hóa, lịch sử qua các thời kỳ, mà còn bởi sự khác biệt trong kỹ thuật xây dựng công trình, giao thông đi lại, bởi phong cảnh thơ mộng, nghệ thuật thủ công truyền thống và nhiều nét đặc trưng riêng biệt khác. Venice được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1987 và đã nhiều năm được các tổ chức có uy tín bình chọn nằm trong top 20 di sản đẹp nhất thế giới. Với sự nổi tiếng của mình, hàng năm Venice được đón một lượng khách du lịch lớn hơn rất nhiều lần dân số bản địa và số này ngày càng tiếp tục gia


tăng. Về mặt kinh tế, các hoạt động du lịch đem lại cho Venice nguồn thu rất lớn. Tuy nhiên, sự gia tăng về số lượng khách đã đặt Venice đối diện với những nguy cơ tiềm ẩn về tính bền vững trong phát triển du lịch. Số khách thực tế đến Venice nay đã khoảng gần 30 triệu lượt/năm, vượt gấp gần 3 lần so với sức chứa tối đa của du lịch thành phố. Lượng khách du lịch quá lớn, lại mang tính mùa vụ cao đã khiến dịch vụ ở Venice luôn trong tình trạng quá tải cùng với nguy cơ các công trình, di sản bị xuống cấp và ô nhiễm môi trường ngày càng khó kiểm soát. Các nghiên cứu còn cho rằng, dưới tác động của sự quá tải về lượng khách cùng những hoạt động du lịch của các du khách này, Venice sẽ có nguy cơ bị chìm lún nhanh hơn nhiều so với hiện nay. Một số sáng kiến, giải pháp đã được Chính phủ Ý, chính quyền địa phương đưa ra trong đó có những ý tưởng về việc cần giảm tính thời vụ của du lịch hoặc phải có chính sách hạn chế số lượng khách đến Venice, song vẫn còn nhiều tranh luận do sự co kéo của các quan điểm. Tổ chức “World Monument Fund” chuyên về bảo tồn di sản đã xếp Venice là một trong số 69 di tích lịch sử, văn hóa và khai quật tầm cỡ thế giới đang bị đe dọa nghiêm trọng [Tác giả tổng hợp từ công trình nghiên cứu “Sustainable tourism as driving force forcultural heritage sites development - 126, tr.73-77]

- Phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa ở làng cổ Đường Lâm - những vấn đề cần suy nghĩ: Làng cổ Đường Lâm (thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) có diện tích 164ha, dân số hơn 6.000 người. Với một quần thể di tích phong phú, nhiều di tích đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh, nhiều ngôi nhà cổ có giá trị đặc biệt, những giá trị nổi bật về lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật và cảnh quan thiên nhiên, Đường Lâm được ghi nhận là làng Việt cổ điển hình vùng đồng bằng sông Hồng và được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích Kiến trúc Nghệ thuật quốc gia.

Từ khi được xếp hạng, lượng du khách về tham quan làng cổ tăng nhanh. Một số nhà cổ đã được hướng dẫn và tham gia làm du lịch theo mô hình du lịch cộng đồng cải thiện đời sống.

Tuy nhiên, nhiều vướng mắc, bất hợp lý ngày càng lớn trong quản lý di tích gắn với phát triển du lịch đã khiến người dân địa phương, từ tự hào về ngôi làng của mình, dần trở nên bức xúc, và đỉnh điểm là sự kiện tháng 4/2013, một số người dân làng cổ cùng ký “đơn xin trả lại danh hiệu di sản” với lý do: Không những không

Xem tất cả 204 trang.

Ngày đăng: 18/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí