việc phân chia công nghiệp chế biến nông, lâm sản thành nhiều ngành hẹp hơn, thúc đẩy quá trình phân công lao động một cách sâu sắc hơn.
Sản phẩm của ngành công nghiệp nông, lâm sản có thể được tạo ra từ một loại nguyên liệu bằng các phương pháp chế biến khác nhau, hoặc từ nhiều loại nguyên liệu nhưng cùng một phương pháp chế biến để tạo thành các mặt hàng khác nhau nhằm bảo đảm nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong xã hội. Trong điều kiện hiện nay cùng với sự phát triển của các ngành khai thác, nuôi trồng cũng như trình độ kỹ thuật và công nghệ chế biến mà các mặt hàng nông, lâm sản ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Điều này đòi hỏi công tác điều hành quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nông, lâm sản cần phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường, phải quy định phẩm chất ban đầu và trình độ kỹ thuật cho phép để xác định phương hướng sản xuất và phương pháp công nghệ thích hợp nhằm tận đụng triệt để nguồn nguyên liệu để sản xuất ra các mặt hàng có chất lượng cao, mẫu mã phong phú phù hợp với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
Ba là, công nghiệp chế biến nông, lâm sản là ngành công nghiệp có nhiều khả năng tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nguyên liệu của công nghiệp chế biến nông, lâm sản là động, thực vật, mà phần lớn các loại nguyên liệu này đòi đảm bảo sự tươi sống, như chế biến thịt gia súc, gia cầm, đòi hỏi được bảo quản tốt như trong chế biến lương thực, cây công nghiệp, lâm sản. Do vậy, các cơ sở chế biến phải tổ chức tốt hệ thống kho, bãi để bảo quản nguyên liệu trước khi đưa vào sản xuất. Mặt khác, phải tính toán khối lượng nguyên liệu dự trữ ở mức hợp lý, nhằm đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất. Đồng thời giảm thiểu việc giảm chất lượng nguyên liệu và phế liệu, phế phẩm trong sản xuất chế biến.
Trong quá trình chế biến nông, lâm sản, sự tác động vào nguyên liệu nông, lâm sản không chỉ thay đổi về tính chất vật lý mà còn làm thay đổi thành phần hoá học của nguyên liệu. Do vậy, trong quá trình sản xuất phải giảm thiểu các sai sót về kỹ thuật, sự chồng chéo, buông lỏng về quản lý ở các khâu trong sản xuất để hạn chế phát sinh phế liệu, phế phẩm.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, công nghiệp chế biến nông, lâm sản ngày càng phát triển, cho phép tận dụng tối đa nguyên liệu, tiết kiệm tài nguyên, thoả mãn nhu cầu đa dạng của con người. Nâng cao hiệu quả kinh tế cho ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi công tác quản lý nhà nước đối với ngành nói chung và quản lý sản xuất kinh doanh của mỗi cơ sở công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng, phải bám sát nhu cầu của thị trường để xác định chủng loại, chất lượng sản phẩm. Từ đó, lựa chọn phương pháp công nghệ thích hợp, tận dụng tối đa nguyên liệu sản xuất ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu của thị trường, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng cạnh tranh, trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản.
Bốn là, công nghiệp chế biến nông, lâm sản là ngành có truyền thống lâu đời, đặc biệt là Việt Nam. Lịch sử cho thấy, người dân Việt Nam có truyền thống lâu đời về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Từ thời phong kiến đã hình thành nên các làng nghề thủ công, tổ chức thủ công nghiệp (sản xuất đồ gỗ). Nhìn chung, tổ chức thủ công nghiệp thời kỳ này gồm hai dạng: dạng quan doanh do Nhà nước phong kiến quản lý, dạng dân doanh tập trung ở các phường phố nội thị và các phường xã ven đô. Ngoài ra còn có nghề thủ công trong các gia đình nông dân làng xã với tính chất là là nghề phụ trong gia đình. Hiện nay, các sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản của Việt Nam đã vươn ra thị trường nước ngoài, trong đó có thị trường của các nước phát triển như Nhật Bản, EU, Mỹ và một số nước khác trong khối SNG và Đông âu. Do vậy yếu tố truyền thống và thị trường là rất lớn trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản Việt Nam thời gian tới.
Năm là, công nghiệp chế biến nông, lâm sản phù hợp với tổ chức quy mô vừa và nhỏ. Bản chất công nghiệp chế biến nông, lâm sản là công nghiệp nhỏ, bởi vậy công nghiệp chế biến nông, lâm sản so với các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là công nghiệp điện, khai khoáng, điện,... Bên cạnh đó, do đặc thù sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian ngắn nên, thời hạn thu hồi vốn đầu tư của công nghiệp chế biến nông, lâm sản cũng thấp hơn nhiều so với các ngành công nghiệp khác. Đồng thời, công nghệ sản xuất không quá phức tạp, lao động của công nghiệp
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ - 2
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ - 3
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ - 4
- Vai Trò Của Nhà Nước Trong Phát Triển Công Nghiệp Chế Biến Nông, Lâm Sản Tại Các Địa Phương
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ - 7
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ - 8
Xem toàn bộ 270 trang tài liệu này.
chế biến nông, lâm sản lại dễ đào tạo nên việc tổ chức sản xuất các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản theo mô hình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất phù hợp với các nước đang phát triển và có điều kiện về địa lý, kinh tế và xã hội của Việt Nam.
Tóm lại, khác với các ngành công nghiệp chế biến khác, chế biến nông, lâm sản là ngành có đặc điểm là phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, độ rủi ro cao; ảnh hưởng của tính thời vụ, thời gian hoạt động trong năm của các cơ sở chế biến thường ngắn, nên khả năng thu hồi vốn đầu tư có nhiều khó khăn. Đồng thời, chế biến nông, lâm sản hầu hết đều gắn với vùng nguyên liệu ở nông thôn và nông dân, vì vậy cũng chịu những tác động tiêu cực do tư tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ, trình độ nguồn nhân lực nói chung còn thấp.
Mặc dù vậy, công nghiệp chế biến nông, lâm sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhiều quốc gia. Đây là ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động, đồng thời đã mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp một nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Công nghiệp chế biến nông, lâm sản hiện có tiềm lực phát triển khá mạnh và được coi là một trong những trọng điểm phát triển công nghiệp của nhiều quốc gia trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản có một số vai trò sau:
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản có ý nghĩa trực tiếp trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Vai trò này thể hiện rõ ở việc thông qua phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp chế biến trong GDP. Công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm thường chiếm 25% trong cơ cấu công nghiệp ở các nước đang phát triển và từ 10-15% ở các nước phát triển. Hơn thế nữa, một nước được coi là nước công nghiệp khi tỷ lệ công nghiệp chế biến có tỷ trọng từ 35% trong GDP. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định phản ánh mức độ phát triển cao của ngành công nghiệp hay nói cách khác là nền kinh tế của đất nước đã là nước công nghiệp hay chưa là nước công nghiệp.
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản góp phần thực hiện mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, một trong những mối quan hệ cơ bản nhất của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động công nghiệp lúc đầu nằm trong nông nghiệp, sau đó tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp và trở thành ngành sản xuất vật chất độc lập của nền kinh tế quốc dân. Tuy đã tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp nhưng giữa hai ngành sản xuất này luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Công nghiệp sản xuất và cung cấp các yếu tố thuộc tư liệu lao động mà cụ thể là các máy móc thiết bị, phân bón, hàng tiêu dùng cho nông nghiệp. Nông nghiệp sản xuất và cung cấp lương thực, thực phẩm cho lao động trong công nghiệp. Hơn nữa nông nghiệp sản xuất và cung cấp các loại nguyên liệu nông sản đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản, trong đó có ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Thực hiện và giải quyết mối quan hệ này, qua đó tạo điều kiện cho người nông dân khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, tiền vốn, sức lao động. Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản cũng góp phần thay đổi cơ sở hạ tầng nông thôn, thu hút các ngành công nghiệp, dịch vụ khác phát triển. Trên cơ sở đó hình thành những cụm, khu công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, gắn liền với nông nghiệp; thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn.
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản góp phần quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của nhiều quốc gia trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tại Việt Nam, trong quá trình hội nhập hiện nay, đã xác định định rõ quan điểm: "Xây dựng nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả''[12]. Thực chất của quan điểm trên là định hướng chiến lược cho sự phát triển công nghiệp, trong đó có cộng nghiệp chế biến nông, lâm sản. Đây chính là chiến lược kết hợp hay còn gọi là chiến lược dung hoà giữa hai mô hình chiến lược hướng nội và mô hình chiến lược hướng ngoại. Dẫu rằng là mô hình hỗn hợp nhưng chúng ta vẫn giành ưu tiên cho xuất khẩu. Mô hình chiến lược hướng về xuất
khẩu có căn cứ là phát huy lợi thế so sánh để phát triển mạnh một số ngành phục vụ xuất khẩu.
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản góp phần thoả mãn nhu cầu đa dạng và phong phú của đời sống nhân dân. Nếu xét thuần tuý thị trường trong nước thì chính sự phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản đã góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và hợp lý của cuộc sống người tiêu dùng của các thành phố, khu công nghiệp;
Với những vai trò quan trọng trên phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng và công nghiệp chế biến nói chung vừa có ý nghĩa về kinh tế, vừa có những ý nghĩa sâu sắc về chính trị và xã hội.
1.2.2. Nội dung cơ bản của phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong phát triển kinh tế địa phương
Phát triển công nghiệp nói chung, công nghiệp chế biến nông, lâm sản theo địa phương không chỉ dựa vào các yếu tố tại chỗ (yếu tố nội sinh - endogenous) mà còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài (yếu tố ngoại sinh - exogenous) thông qua các mối quan hệ liên vùng trong một quốc gia và trên phạm vi quốc tế.
Các yếu tố nội sinh cần quan tâm trong quá trình nghiên cứu phân tích tổ chức sản xuất công nghiệp địa phương, bao gồm: địa lý kinh tế, tài nguyên; cơ sở hạ tầng bao gồm hạ tầng sản xuất và xã hội; đất xây dựng với các đặc tính về vị trí địa lý, địa chất công trình, khả năng mở rộng; khả năng thị trường; vốn đầu tư...
Các yếu tố ngoại sinh được xét đến ở đây có phạm vi rất rộng, chúng thuộc những vùng, địa phương khác nhau trong nước và nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, các yếu tố bên ngoài chi phối mạnh mẽ và lại có ý nghĩa quyết định đối với tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ ở một vùng nào đó như: thị trường (thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường về nguyên liệu, cạnh tranh thị trường quốc tế giữa các khu công nghiệp, khu chế xuất có thể coi như là một sản phẩm quốc tế trong thị trường cạnh tranh gay gắt về địa điểm đầu tư); hợp tác quốc tế và hỗ trợ vốn đầu tư từ các nước; các yếu tố chính trị (điều kiện ưu đãi về vốn, đặc biệt vốn ODA, các khoản vay ngân hàng cho phát triển kết cấu hạ tầng ở các khu công
nghiệp, chính sách tạo điều kiện về nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị, khả năng chuyển giao công nghệ tiên tiến; các hình thức tổ chức công nghiệp theo lãnh thổ (điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, trung tâm công nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, dải công nghiệp...).
Với cách tiếp cận trên, xác định phát triển công nghiệp gắn với phát triển địa phương, gồm các nội dung sau:
1.2.2.1. Xác định lợi thế so sánh phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản của địa phương
Như đã đề cập ở trên, vùng địa phương là không gian kinh tế để phân bố các ngành sản xuất, dịch vụ. Các lý thuyết về tổ chức sản xuất công nghiệp gắn với sự phát triển vùng địa phương, trong đó có lý thuyết lợi thế so sánh đã chỉ ra rằng, mỗi vùng, lãnh thổ theo các quy mô khác nhau đều chứa đựng những cực, hành lang, vành đai, khu vực,... có điều kiện phát triển hơn.
Mỗi vùng, địa phương đều được xem xét để phân bổ phát triển các ngành có thuận lợi hơn các địa phương khác, thậm chí còn có thể xác định ngành chuyên môn hoá của địa phương nào đó. Chính vì vậy, phạm vi xác định lợi thế so sánh trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản của mỗi địa phương đan xen bởi nhân tố khác nhau.
Trước hết, là các yếu tố lợi thế của địa phương trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản bao gồm: những nhân tố cơ bản sẵn có của sản xuất (như nguồn lao động, năng lượng rẻ, truyền thống phát triển kinh tế, xã hội), hay các nguồn tài nguyên sẵn có do thiên nhiên đem lại (đất đai, rừng, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,...).
Các yếu tố có lợi thế so sánh trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản được xác định trong phạm vi một tỉnh cần được so sánh với các tỉnh trong vùng và xét trong mối quan hệ với thị trường trong nước và quốc tế. Trong xem xét các lợi thế của địa phương thì việc biến các lợi thế tuyệt đối thành lợi thế so sánh có ý nghĩa quan trọng, nhất là các điều kiện tự nhiên. Những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nhân lực là các lợi thế so sánh về chi phí sản xuất, có thuận lợi trên thị trường, đồng thời thu hút các nguồn lực khác.
Tuy nhiên, những giả thiết làm cơ sở cho lý thuyết này không thực tiễn trong hầu hết các ngành như giả thiết về công nghệ đồng nhất giữa các địa phương, không có lợi thế kinh tế theo quy mô, các yếu tố sản xuất không dịch chuyển giữa các địa phương. Với lý thuyết về lợi thế so sánh, mậu dịch và sự chuyên môn hoá dựa vào nguồn lực (lao động, vốn, tài nguyên) giúp cho một địa phương đạt được sự thịnh vượng. Trong một nền kinh tế mà thị trường phân khúc, có sự khác biệt sản phẩm, khác biệt về công nghệ và các ngành có lợi thế kinh tế theo quy mô dường như lý thuyết lợi thế so sánh không đủ để giải thích tại sao các công ty lại thành công trên thị trường thế giới và đạt được mức tăng trưởng cao.
1.2.2.2. Tạo lập lợi thế cạnh tranh phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản của địa phương
Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản của địa phương được xem xét trong mối quan hệ của nó với lợi thế cạnh tranh, cụ thể là lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản tại địa phương và lợi thế cạnh tranh của chính địa phương đó. Khi điều kiện và môi trường kinh doanh chế biến nông, lâm sản tại địa phương này không bằng ở địa phương khác thì các doanh nghiệp sẽ di chuyển sang địa phương có lợi thế cạnh tranh hơn. Vì vậy, các yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản được kết hợp một cách sáng tạo để gia tăng tính cạnh tranh bao gồm các điều kiện nhà máy; nhu cầu trong nước; các ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp liên quan; chiến lược công nghiệp, cơ cấu và khả năng cạnh tranh.
Để lý giải cho vấn đề này, lý thuyết “lợi thế cạnh tranh” của Michael Porter cho rằng: Tính cạnh tranh càng được địa phương hóa thì càng khốc liệt và càng khốc liệt càng tốt. Lợi thế cạnh tranh được M. Porter mô tả dựa trên 4 yếu tố: Chiến lược kinh doanh và cạnh tranh, các ngành công nghiệp hỗ trợ, các điều kiện hoàn cảnh và điều kiện về cầu.
Điều kiện cho chiến lược kinh doanh và cạnh tranh của DN
Các yếu tố đầu vào
Các điều kiện đầu ra
Các ngành có liên quan và hỗ trợ
Điều kiện ở
địa phương khuyến khích đầu tư phù hợp và nâng cấp bền vững
Sơ đồ 1.1: Mô hình hình thoi về "lợi thế cạnh tranh” của Michael Porter
Tuy nhiên, thực tế lại chịu chi phối chủ yếu của các điều kiện luôn biến động, và chính ở đây buộc các doanh nghiệp phải tăng năng suất và đổi mới, và cũng chính ở đây, cuộc cạnh tranh ngầm xảy ra, đặc biệt cạnh tranh càng dữ dội khi các đối thủ cạnh tranh theo không gian. Điều này càng đúng khi hiệu quả của việc này là tiêu diệt những lợi thế về địa điểm tĩnh và buộc các doanh nghiệp phát triển các lợi thế động.
M. Porter nhấn mạnh sự cần thiết phải tạo ra một môi trường kinh doanh tốt nhất cho các doanh nghiệp trong vùng địa phương. Các doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi khi tham gia vào dây chuyền công nghiệp và khi có quan hệ chặt chẽ với các ngành liên quan. Sự gần gũi về không gian giữa những ngành công nghiệp đang phát triển theo chiều hướng đi lên hoặc đi xuống hỗ trợ cho việc trao đổi thông tin và thúc đẩy sự liên tục trao đổi ý kiến và các sáng kiến đổi mới. Các điều kiện đầu vào ưu đãi như khả năng cung ứng nguồn nhân lực nhiều với giá nhân công rẻ, giàu tài nguyên thiên nhiên có thể đem lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, về lâu dài thì những yếu tố này khó có thể mang lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Có thể những bất lợi về các yếu tố đầu vào này buộc các doanh nghiệp phải hành động một cách sáng tạo và là động lực thúc đẩy họ tìm ra yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh cho mình.