Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ - 2


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

Chiếm gần 1/6 diện tích tự nhiên cả nước, các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ có vị trí địa lý kinh tế, quốc phòng quan trọng, có hệ thống đường giao thông, cảng biển thông thương. Ở đây thành phố và thị xã là các trung tâm thương mại có tác động, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh kế của vùng. Đặc điểm tự nhiên đa dạng với các tiểu vùng khí hậu khác nhau có hệ thống động thực vật và tài nguyên thiên nhiên phong phú cho phép phát triển nền kinh tế đa dạng. Tuy nhiên, các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ nhìn chung còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng yếu kém, công nghiệp chậm phát triển, nông lâm, ngư, nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP của các tỉnh trong vùng.

Trong những năm gần đây, trong khuôn khổ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đề ra những chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Theo đó ngành công nghiệp các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ đã đạt được nhiều thành tựu và tiến bộ đáng kể, góp phần quan trọng để nền kinh tế của cả vùng giữ được mức tăng trưởng khá, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh trong trong vùng còn nhiều yếu kém, chưa phát huy được đầy đủ lợi thế so sánh. Công nghiệp chế biến nông, lâm sản một số tỉnh trong vùng có tốc độ tăng trưởng nhanh, nhưng thiếu bền vững; Khoảng cách trình độ phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản giữa các tỉnh trong vùng có xu hướng tăng, nhiều nơi còn rất khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên, một phần do những bất cập trong hoạch định chính sách và tổ chức quản lý phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản của các tỉnh trong vùng, nhưng chủ yếu là do những yếu kém trong xác định chiến lược phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản từ góc độ lợi thế


so sánh, đánh giá xác định lợi thế, bất lợi thế để đề ra định hướng và các giải pháp phát huy lợi thế trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản của các tỉnh trong vùng.

Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề ra những chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản của các tỉnh trong vùng lãnh thổ theo yêu cầu bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng tôi chọn đề tài: "Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ".

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 270 trang tài liệu này.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Hệ thống hoá và vận dụng lý luận phát triển công nghiệp gắn với phát triển vùng làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của công nghiệp chế biến nông, lâm sản đối với sự phát triển vùng địa phương; xác định nội dung và các chỉ tiêu đánh giá phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong chiến lược phát triển vùng; Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam thời gian qua; đồng thời, định hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh này trong thời gian tới.

Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ - 2

3. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Lý thuyết về phát triển kinh tế vùng địa phương, phát triển công nghiệp gắn với phát triển vùng địa phương đã có nhiều công trình, tài liệu trong và ngoài nước nghiên cứu và đề cập tới. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự phát triển của một ngành công nghiệp cụ thể như công nghiệp chế biến nông, lâm sản gắn với sự phát triển kinh tế địa phương thì hầu như chưa có công trình nào đề cập và nghiên cứu một cách đầy đủ. Luận án, tổng quan lại một số vấn đề liên quan như sau:

- Các lý thuyết nghiên cứu về vấn đề phát triển công nghiệp gắn với phát triển vùng địa phương, có thể nêu ra như:

+ Lý thuyết phát triển vành đai nông nghiệp của I.G. Thunen (Đức, 1833). Lý thuyết này cho rằng: Do ảnh hưởng của thành phố (trung tâm thị trường), dẫn đến


phân chia lãnh thổ của một quốc gia thành các vùng sử dụng đất khác nhau. Cơ sở của mô hình này dựa trên nguyên tắc của cực tiểu hoá chi phí và cực đại hoá lợi nhuận. Sau đó, A. Weber cũng có đóng góp nhiều cho lý thuyết này. Lý thuyết này coi thành phố là những nút trọng điểm của lãnh thổ có sức ảnh hưởng lan toả lớn [64].

+ Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (Mỹ, 1933). Lý thuyết này cho rằng: Vùng nông thôn chịu cực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát triển [32]. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị trường ngoài ngưỡng giới hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm. Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm là xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [32].

+ Lý thuyết cực phát triển được F.Perroux (Pháp) đưa ra vào những năm 1950 [64]. Lý thuyết này cho rằng, một vùng không thể phát triển kinh tế đều đặn ở tất cả các điểm trên lãnh thổ của nó, có những điểm phát triển nhanh trong khi ở những điểm khác lại chậm phát triển hoặc trì trệ. Các điểm phát triển nhanh này là những trung tâm có lợi thế so sánh với toàn vùng. Như vậy, có thể chú trọng tác động vào những khu vực trọng điểm làm đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế của lãnh thổ. Đó là, ngành công nghiệp và dịch vụ có vai trò to lớn đối với sự tăng trưởng của vùng và đi kèm theo với điểm tăng trưởng là một ngành công nghiệp then chốt. Ngành công nghiệp then chốt phát triển, lãnh thổ được phân bố cũng phát triển [64].

+ Lý thuyết về phân bố doanh nghiệp trong phát triển lãnh thổ của A.Schoon (Universite’ Libre de Bruxelles) [32], cho rằng, ở địa phương tồn tại một hoặc nhiều doanh nghiệp coi như động lực phát triển và quanh đó người ta tập trung một số doanh nghiệp khác thường là nhỏ hơn trong mối quan hệ kỹ thuật hay quan hệ chủ thầu - gia công (được gọi là các thị trường tăng trưởng).


Nhà nước tác động đến phát triển các doanh nghiệp thông qua các bộ luật, đầu tư cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh,... Quá trình phát triển nhằm tạo ra trung tâm tăng trưởng trong vùng, đồng thời sẽ tác động đến các vùng khác, và các vùng không được hưởng sự quan tâm đầu tư sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng kém phát triển. Sau những năm thập kỷ 80, vai trò doanh nghiệp trong vùng có sự thay đổi, phát triển vùng lãnh thổ có tính ưu tiên cao hơn và vai trò của vùng lãnh thổ theo đúng tên gọi của thực địa, của môi trường. Làm thế nào để lãnh thổ phù hợp với sự phát triển kinh tế ? Mục tiêu bây giờ không còn tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp mà là tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp vào lãnh thổ mong muốn. Tức là, phải xác định các điểm mạnh và điểm yếu của lãnh thổ đó và tìm cách quy hoạch để các doanh nghiệp đến tổ chức sản xuất kinh doanh theo lãnh thổ. Từ đó, vai trò hỗ trợ của chính quyền địa phương ngày càng trở nên quan trọng. Chính quyền cũng phải sáng tạo để hỗ trợ, cổ vũ sự sáng tạo của doanh nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp lại đặt các vùng vào tình thế cạnh tranh với nhau theo các tiêu chí như nhân công tại chỗ, dịch vụ cho các doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng,...

- Trong thực tế, một số quốc gia trên thế giới đã thành công với việc phát triển công nghiệp gắn với phát triển vùng và đã đem lại những thành công cho vùng và cả các quốc gia đó, như Vùng Emillie - Romagne (Italia); Vùng Baden - Wurttemberd, Đức; Thành phố công nghiệp Worcester, Masachusett (Mỹ); Đặc khu kinh tế Thâm Quyến và Hải Nam (Trung Quốc).

- Ở Việt Nam, về lý thuyết đề cập tới vấn đề phát triển kinh tế vùng địa phương, phát huy lợi thế so sánh trong phát triển vùng địa phương đã được đề cập trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”; và nhiều bài viết được đăng tải trên nhiều tạp chí và báo chuyên ngành.

Đến nay, cũng đã có một số địa phương trong nước áp dụng thành công mô hình phát triển kinh tế vùng, như Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương...


- Nội dung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, cũng có nhiều cuộc hội thảo, đề án, công trình, bài báo của các cơ quan nghiên cứu và các học giả đề cập đến, như:

+ Qui hoạch phát triển các ngành công nghiệp theo vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020, đã làm công tác qui hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp cho 6 vùng lãnh thổ (theo cách phân vùng của Bộ Công nghiệp), trong đó có ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản.

+ Sách của Đặng Văn Phan (chủ biên) (1991), Đánh giá hiện trạng kinh tế (công nghiệp, nông - lâm nghiệp, công nghiệp chế biến các tỉnh giáp biển miền Trung), Nxb Chính trị Quốc gia. Tác giả thu thập và xử lý số liệu từ các niên giám thống kê của Trung ương và địa phương, từ tài liệu điều tra cơ bản, từ các dự án qui hoạch của 7 tỉnh giáp biển miền Trung, hệ thống theo 4 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến. Mỗi lĩnh vực đều có đánh giá hiện trạng. Đáng lưu ý nhất là báo cáo hiện trạng nông nghiệp về: diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng, gia súc, đất đai, thuỷ lợi, hệ thống trạm trại, vốn đầu tư, vùng chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp, các dự án phát triển nông nghiệp và một số chỉ tiêu chung. Ngoài ra, còn có phần phụ lục kết quả nghiên cứu, trong đó nêu: đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất vùng Bắc Trung Bộ, quan điểm, phương hướng phát triển và phân bố lực lượng sản xuất khu vực thời kỳ 1991-2005.

+ Đề tài của TS. Lê Thế Tiệm - Viện Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2001) “Nghiên cứu chính sách và giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bảo quản, chế biến và tiêu thụ một số sản phẩm nông nghiệp”. Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện quá trình bảo quản và chế biến các loại nông sản chủ yếu.

+ Đề tài nghiên cứu cấp bộ (Bộ Thương mại) (2005) của GS.TSKH. Lương Xuân Quỳ “Chính sách và giải pháp nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2005”. Đề tài đã nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận về giá trị gia tăng. Trong đó, tác giả đã phân tích đánh giá thực trạng giá trị gia tăng


của một số nông sản xuất khẩu chủ yếu như gạo, chè, cà phê, thuỷ sản. Từ đó, đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho những ngành hàng tương ứng. Đây được coi là một hướng tiếp cận lý luận mới trong phát triển ngành hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.

+ Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Kim Anh “Phương hướng và các giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu tỉnh Khánh Hòa” (2002). Đề tài nghiên cứu một nhóm ngành cụ thể trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Khánh Hoà - tỉnh có nhiều lợi thế về phát triển công nghiệp chế biến thuỷ sản. Tác giả cho rằng, công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu là một trong các ngành được nhiều quốc gia quan tâm đầu tư phát triển (nhất là các quốc gia có lợi thế về biển) vì các ưu thế về vốn đầu tư không quá lớn, tận dụng được nguồn nhân công trong nước và tạo thuận lợi cho mở rộng quan hệ thương mại và giao lưu quốc tế. Tuy nhiên, công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu có những đặc trưng rất cơ bản, nó chi phối và tác động trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của ngành kinh tế - kỹ thuật này, buộc các nhà sản xuất và quản lý phải quan tâm đến nó.

+ Đề tài “Định hướng và giải pháp phát triển ngành công nghiệp chế biến phục vụ mục tiêu xuất khẩu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh” của Viện Nghiên cứu Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, do TS. Bùi Thị Minh Hằng làm chủ nhiệm. Đề tài đã đề xuất những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến phục vụ mục tiêu xuất khẩu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và các giải pháp thực hiện, các chính sách và biện pháp hỗ trợ cần thiết.

+ Bài viết “Lao động ngành chế biến nông, lâm sản Việt Nam trước hội nhập kinh tế” của tác giả Nguyễn Mạnh Dũng, đăng trên Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã nêu quá trình phát triển và những thành tựu đạt được của ngành chế biến nông, lâm sản Việt Nam trong nền kinh tế hàng hoá. Tác giả đi vào phân tích thực trạng lao động trong ngành chế biến nông, lâm sản; đồng thời, đề xuất định hướng phát triển của ngành chế biến nông, lâm sản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.


+ Nghiên cứu của GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn (2004), “Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản xuất khẩu”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 82, tr.68. Bài viết trên cơ sở đánh giá khái quát tình hình phát triển một số nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến Việt Nam, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản xuất khẩu Việt Nam thời gian tới.

Ngoài ra còn có nhiều hội thảo, hội nghị,... liên quan đến vấn đề phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói chung, như: “Hội thảo về phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản - năm 1994”; “Đề án phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản đến năm 2010” của Cục Chế biến nông, lâm sản và nghề muối;... và các bài viết khác của các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web,... trong nước và quốc tế có liên quan đến phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản nước ta. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản gắn với phát triển kinh tế địa phương (cấp tỉnh) thuộc vùng, như vùng Bắc Trung Bộ; Với công trình này, chúng tôi nhằm đi sâu nghiên cứu đề tài đó. Qua đó đánh giá thực trạng tình hình phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ; và đề xuất định hướng, giải pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp này gắn với phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ trong quá trình công nghiệp hoá, hội nhập quốc tế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Những vấn đề kinh tế trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản gắn với phát triển kinh tế của địa phương trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, thời gian từ 2001 - 2006.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản. Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp,...


Luận án cũng đã sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát thực tế và trao đổi, đối thoại với lãnh đạo các địa phương, nhà khoa học, quản lý doanh nghiệp và nông dân trên địa bàn các tỉnh trong vùng,... để thực hiện việc nghiên cứu thực trạng nội dung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn từ 2001 đến 2006. Nghiên cứu đã dựa trên phân tích môi trường chung các tỉnh trong vùng về chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ (mô hình phân tích PEST) để phân tích cơ hội và thách thức đối với một số ngành lựa chọn xem xét; mô hình 5 lực lượng cạnh tranh áp dụng cho phân tích môi trường ngành (five forces model); mô hình kim cương (diamond model) để xác định lợi thế cạnh tranh ngành. Nghiên cứu áp dụng công cụ phân tích chuỗi giá trị (value chain analysis) để xác định điểm mạnh và điểm yếu. Phân tích chiến lược của một số doanh nghiệp trong các nhóm ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản được cho là có tiềm năng trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, nhằm xác định việc chính quyền các tỉnh tạo lập lợi thế cạnh tranh các ngành này như thế nào.

Nghiên cứu phân tích các nhóm ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản có khả năng tăng trưởng được tiến hành thông qua ba bước:

(i) Thu thập, rà soát các văn bản hiện hành và số liệu thống kê, các văn bản lưu trữ tại các sở, ban, ngành các của tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, bao gồm các qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã được xây dựng triển khai; kết quả đạt được của các chiến lược, kế hoạch đã triển khai; các qui hoạch, kế hoạch phát triển các chuyên ngành kinh tế của tỉnh trong thời gian tới cũng được nghiên cứu xem xét và đánh giá. Đồng thời, dựa trên số liệu thống kê về ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong giai đoạn 2001-2005, tiến hành phân tích và xác định một số ngành công nghiệp có triển vọng phát triển; với nguồn số liệu điều tra doanh nghiệp trong 5 năm liên tục của Tổng cục Thống kê đã cho phép đánh giá một cách tương đối đầy đủ các mặt hoạt động của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh.

(ii) Gặp gỡ, trao đổi với một số chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý của một số tỉnh trong vùng nhằm thu thập những thông tin cơ bản, một bức tranh lớn về các vấn đề quan tâm từ những cá nhân được coi là những nguồn thông tin quan trọng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/01/2023